Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2009

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ MÃ SỐ - MÃ VẠCH

6. Thông tin Hỗ trợ doanh nghiệp


Trong 5 năm trở lại đây, người tiêu dùng Việt Nam nói chung và ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... nói riêng đã có thói quen vào các siêu thị hoặc các Mini shop để xem, và mua sắm hàng hóa. Tại đây, mọi người đều có thể thấy một dãy số dưới một dãy vạch đậm nhạt dài ngắn khác nhau được in trực tiếp trên sản phẩm hoặc trên một tem dán phần ngoài bao bì đóng gói của sản phẩm.

Trong quản lý hàng hóa, người ta gọi dãy số và dãy vạch đó là mã số - mã vạch (MS-MV). Thế nhưng, không ít người tiêu dùng và doanh nghiệp còn chưa biết MS-MV là gì và vì sao phải in nó trên mỗi sản phẩm. Nội dung bài này nhằm hỗ trợ kiến thức cơ bản cho doanh nghiệp và người tiêu dùng về MS-MV của hàng hóa.


1. Mã số hàng hóa (Article Number Code) là ký hiệu bằng một dãy chữ số nguyên thể hiện như một thẻ để chứng minh hàng hóa về xuất xứ sản xuất, lưu thông của nhà sản xuất trên một quốc gia (vùng) này tới các thị trường trong nước hoặc đến một quốc gia (vùng) khác trên khắp các châu lục. Bởi vậy, mỗi loại hàng hóa sẽ được in vào đó (gắn cho sản phẩm) một dãy số duy nhất. Đây là một sự phân biệt sản phẩm hàng hóa trên từng quốc gia (vùng) khác nhau, tương tự như sự khác biệt về MS điện thoại. Trong viễn thông người ta cũng quy định mã số, mã vùng khác nhau để liên lạc nhanh, đúng, không bị nhầm lẫn.

· Cấu tạo mã số hàng hóa (MSHH): Đến nay, trong giao dịch thương mại tồn tại 2 hệ thống cơ bản về MSHH:

Một là, hệ thống MSHH được sử dụng tại thị trường Hoa Kỳ và Canada. Đó là hệ thống UPC (Universal Product Code), được lưu hành từ thập kỷ 70 của thé kỷ XX cho đến nay.

Hai là, hệ thống MSHH được sử dụng rộng rãi ở các thị trường còn lại của thế giới, đặc biệt là châu Âu, châu Á,...; trong đó phổ biến là hệ thống EAN (European Article Number). Trong hệ thống MSHH EAN có 2 loại ký hiệu con số: Loại EAN-13 và EAN-8.


+ Cấu trúc của EAN-13:

Mã số EAN-13 là 1 dãy số gồm 13 chữ số nguyên (từ số 0 đến số 9), trong dãy số chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm có ý nghĩa như sau (xem hình 1):

Nhóm 1: Từ trái sang phải, ba chữ số đầu là mã số về quốc gia (vùng lãnh thổ)

Nhóm 2: Tiếp theo gồm bốn chữ số là mã số về doanh nghiệp.

Nhóm 3: Tiếp theo gồm năm chữ số là mã số về hàng hóa.

Nhóm 4: Số cuối cùng (bên phải) là số về kiểm tra



Ví dụ theo quy ước trên, số kiểm tra (C) có ý nghĩa về quản lý đối với việc đăng nhập, đăng xuất của các loại sản phẩm hàng hóa của từng loại doanh nghiệp.

Vậy xác định như thế nào?

Ví dụ: Mã số 8 9 3 3 4 8 1 0 0 1 0 6 - C:

Bước 1 - Xác định nguồn gốc hàng hóa: 893 là MSHH của quốc gia Việt Nam; 3481 là MS doanh nghiệp thuộc quốc gia Việt Nam; 00106 là MSHH của doanh nghiệp.

Bước 2 - Xác định C.

Cộng tổng giá trị của các số ở thứ tự lẻ bắt đầu được tính từ phải sang trái của dãy MS (trừ số C), ta có : 6 + 1 + 0 + 8 + 3 + 9 = 27 (1)

Nhân tổng của (1) với 3, ta có: 27 x 3 = 81 (2)




Cộng tổng giá trị của các số ở thứ tự chẵn còn lại, ta có :

0 + 0 + 1 + 4 + 3 + 8 = 16 (3)

Cộng giá trị (2) với (3), ta có : 81 + 16 = 97 (4)

Lấy giá trị của (4) làm tròn theo bội số của 10 (tức là 100) sát nhất với giá trị của (4) trừ đi giá trị của (4) ta có: 100 - 97 = 3. Như vậy C = 3.

Trong trường hợp này mã số EAN - VN 13 có MSHH đầy đủ là:

893 3481 00106 3

+ Cấu trúc của EAN - 8:

Về bản chất tương tự như EAN-13 chỉ khác là EAN-8 gồm 8 chữ số nguyên, tuỳ theo sắp xếp và lựa chọn các chữ số từ số 0 đến số 9 được chia làm 3 nhóm:

Mã số quốc gia: Gồm 3 chữ số đầu tiên (bên trái)

Mã số hàng hóa: Gồm 4 chữ số tiếp theo.

Mã số kiểm tra: Gồm 1 chữ số đứng cuối cùng. Nhận dạng số C cũng được tính từ 7 số đứng trước nó và cách tính cũng tương tự như EAN-13.

Cần lưu ý rằng, việc sử dụng EAN-13 hay EAN-8 là do Tổ chức EAN thế giới phân định. Sau khi EAN Việt Nam được cấp MS, các doanh nghiệp của Việt Nam muốn sử dụng mã số EAN-VN thì phải có đơn đệ trình là thành viên EAN-VN, sau đó đăng ký xin EAN-VN cấp cho MS cho đồng loại hàng hóa. Việc cấp đăng ký MS cho sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam do các tổ chức EAN-VN có thẩm quyền cấp và được EAN thế giới công nhận, được lưu trữ trong ngân hàng dữ liệu EAN thế giới.

2. Mã vạch hàng hóa

· Khái niệm về mã vạch (Bar Code): Là hình ảnh tập hợp ký hiệu các vạch (đậm, nhạt, dài, ngắn) thành nhóm vạch và định dạng khác nhau để các máy đọc gắn đầu Laser (như máy quét Scanner) nhận và đọc được các ký hiệu đó. Bằng công nghệ thông tin, các mã vạch này được chuyển hóa và lưu trữ vào ngân hàng Server.

· Mã vạch sẽ được trình bày kèm theo mã số và tập hợp thành những hình ảnh và ký tự số tạo nên thang số được gọi MS-MV hàng hóa (xem hình 2).

· Cấu trúc mã vạch: Mã vạch EAN-13 hoặc mã vạch EAN-8 là những vạch tiêu chuẩn có độ cao từ 26,26 mm đến 21,64 mm và độ dài từ 37,29 mm đến 26,73 mm.

· Cấu trúc mã vạch cũng do các tổ chức quốc gia về EAN quản lý và phân cấp đối với các doanh nghiệp.

Hình 2: Mã số - Mã vạch

3. Tiện ích khi các doanh nghiệp đăng ký MS-MV

Trong mỗi quốc gia, các doanh nghiệp, các nhà cung cấp sẽ thuận lợi khi quản lý, phân phối; biết được xuất xứ, nguồn gốc của mỗi loại sản phẩm.

Trong giao lưu thương mại quốc tế, các nhà sản xuất, các nhà cung cấp tránh được các hiện tượng gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng; sản phẩm hàng hóa có thể lưu thông trôi nổi toàn cầu mà vẫn biết được lai lịch của nó cũng như đảm bảo độ chính xác về giá cả và thời gian giao dịch rất nhanh.

Trong giao dịch mua bán, kiểm soát được tên hàng, mẫu mã, quy cách, giá cả xuất, nhập kho hàng không bị nhầm lẫn và nhanh chóng, thuận tiện.

Ở Việt Nam, Chính phủ đã giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan quản lý nhà nước về EAN-VN. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng là đại diện của EAN-VN và là thành viên chính thức của EAN quốc tế. Việc đăng ký và cấp MS-MV cho các doanh nghiệp để gắn trên các sản phẩm đều do cơ quan Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng quản lý, phân phối cho các tổ chức hợp pháp khác thực hiện hoặc cấp trực tiếp cho doanh nghiệp.

Đối với Việt Nam, đi theo MV là MS có 3 chữ số 893, Trung Quốc có mã số 690, Singapore có mã số 888, Vương quốc Anh có mã số 50, các quốc gia Bắc Mỹ thì đăng ký mã số (UPC) của Hoa Kỳ.

Ngoài những nguyên tắc cơ bản về MS-MV trình bày ở trên, cũng có những trường hợp ngoại lệ đối với một số sản phẩm hàng hóa: MS tập hợp trên 13 chữ số đi với MV không có độ cao, độ dài nêu trên mà dải phân cách MV dài hơn, ngắn hơn. Ví dụ như vật phẩm điện thoại di động hiện nay, MS-MV rất đặc trưng.

Đối với điện thoại di động, về MS, ta thấy có tới 15 chữ số mà chiều cao MV nhỏ hơn 10 mm. Biểu tượng MS-MV không in dán phía ngoài mà in dán phía trong máy. Ngoài ra cũng có một số vật phẩm khác có MS-MV không theo quy tắc trên nhưng vẫn đảm bảo các tiện ích cho doanh nghiệp và người tiêu dùng, được EAN quốc tế cho lưu hành.

http://my.opera.com/vuhau.vn/blog/index.dml/tag/6.%20Th%C3%B4ng%20tin%20H%E1%BB%97%20tr%E1%BB%A3%20doanh%20nghi%E1%BB%87p
(Theo tchdkh)

Thứ Ba, 18 tháng 8, 2009

Nguyên lý Chuyển động tròn của Hiệp Khí Đạo

Lần đầu tiên được Tổ sư Ueshiba trình diễn cho coi một vài thế Hiệp Khí Đạo, Gs.Tohei đã cho là một sự xếp đặt giả dối. Thật vậy, với những động tác nhẹ nhàng uyển chuyển chẳng khác những bước khiêu vũ, Tổ sư đã quật ngã tất cả các đệ tử xông vào tấn công Ngài. Nhưng sau đó, khi dùng hết mức bình sinh tấn công Tổ sư, chính ông đã bị quật ngã xuống chiếu mà chẳng biết mình bị phản công như thế nào. Nên nhớ lúc đó Gs.Tohei đã là một huyền đai Nhu Đạo.

Kỹ thuật là gì? Một cách tổng quát, ta có thể định nghĩa kỹ thuật là phương tiện để đạt được hiệu quả tối đa với một cố gắng tối thiểu.

Áp dụng trong Hiệp Khí Đạo (HKĐ) đó là sự dùng chính sức mạnh để làm cho địch thủ thất thế. Khi bị đẩy, môn sinh HKĐ di chuyển theo chiều hướng của sự tấn công rồi thêm uy lực của mình vào sức của địch. Bí quyết xử dụng sức mạnh của địch để chế ngự địch trong HKĐ, nằm trong nguyên tắc di chuyển hình vòng (Marui). Sự di chuyển theo đường thẳng gần như không có trong HKĐ. Hầu hết các động tác, dù là của tay, chân hoặc tất cả thân thể đều theo đường cong. Nguyên tắc di chuyển hình vòng đặt trên những căn bản khoa học vững chắc. Ta thử khảo sát sau đây.

I. ĐỘNG LỰC HỌC của CHUYỂN ĐỘNG TRÒN

Lấy thí dụ đòn thế Kote gaeshi: ta nắm lấy cổ tay của Uke và xoay tròn. Uke bị lôi cuốn theo và mất thăng bằng vì:

- Ta chiếm trung tâm và xoay ít trong khi Uke ở ngoại biên phải "chạy" nhiều.

- Uke chịu ảnh hưởng của lực hướng tâm và lực ly tâm. 2 lực này tỉ lệ với vận tốc quay và khó mà cân bằng với nhau được do sự hiện diện của những lực khác (lực cọ xát với mặt đất, lực do quán tính của địch thủ v.v...), do đó giúp bẻ gãy sự thăng bằng của Uke.

Theo sơ đồ sau đây, muốn thực hiện một sự di chuyển tròn hữu hiệu, Tori phải:

- Giữ một thế thăng bằng thật vững chắc.

- Cánh tay nắm cổ tay Uke không được bẻ quặp lại để Uke phải di chuyển nhiều.

- Xoay càng nhanh càng tốt.

Các môn võ gọi là "cương" thường tập trung năng lực vào một bộ phận của cơ thể: cạnh bàn tay, cùi chỏ, chân... Đòn thế mạnh mẽ, chuộng đường thẳng, lúc chạm vào người địch thủ chính là lúc kết thúc của đòn.

Trái lại, trong HKĐ, ngăng lực sinh ra do sự di chuyển của toàn thân quanh trục của trọng tâm. Sức mạnh của một cánh tay chẳng hạn, tất phải yếu hơn sức mạnh của toàn thân, đó là một điều rất dễ hiểu.

http://img27.imageshack.us/img27/6483/hinhtron.jpg


Thí dụ : Đòn thế Ude osae thực hiện dễ dàng và mạnh mẽ nếu dùng sức mạnh do sự xoay của hông.


http://img27.imageshack.us/img27/3447/hinh7707.jpg

Tóm lại, sự di chuyển hình vòng phát sinh ra một động năng rất lớn vì cho phép ta dùng một cách hữu hiệu trọng lực của thân hình. II. KAMAE

Nếu thân thể đang di chuyển hình vòng có thể so sánh với một bông vụ đang quay thì lúc nghĩ ngơi, ta phải giữ một tư thế trong đó thân hình có thể ví như một hình tứ diện đều. Tư thế này thoải mái, vững chắc nhất và cho phép di chuyển về mọi phương hướng một cách nhanh chóng nhất.


http://img171.imageshack.us/img171/6894/buocchan.jpg
III. TÍNH CÁCH NHU của CHUYỂN ĐỘNG VÒNG Gs. Tohei đã viết "Sức mạnh có giới hạn, nhưng những phương cách tránh sức mạnh thì vô số".

Không bao giờ một kỹ thuật HKĐ trực tiếp đối chọi lại sức mạnh của địch thủ. Trái lại môn sinh HKĐ di chuyển theo hình vòng và như thế hóa giải được sức tấn công mà không cần có sự tranh đua về sức mạnh. Một khi nắm vững được nguyên tắc này thì ta có thể hóa giải một sự tấn công từ bất cứ phương nào.
http://img100.imageshack.us/img100/3730/91868798.jpg

Lấy lại thí dụ: Shomen tsuki kote gaeshi ura khi Uke đấm vào bụng ta, ta sẽ xoay hông sang một bên để tránh sức mạnh của cú đấm. Sau đó ta rút chân kia về phía sau và tóm lấy cổ tay của Uke và hướng dẫn hắn vào một chuyển động hình vòng quanh trung tâm của ta. Đòn thế này là một thí dụ điển hình cho thấy sự dùng sức mạnh của địch thủ cộng với động năng của chính ta. Tuy nhiên, muốn được hữu hiệu, kỹ thuật này đòi hỏi sự chính xác và sự đồng thời với các chuyển động của địch. Vượt khỏi phương diện kỹ thuật, môn sinh HKĐ luôn luôn phải rèn luyện tâm trí để có thể "hiểu" địch thủ, hòa hợp với tâm trí của địch. IV. VÒNG CẦU ĐỘNG

Sự di chuyển vòng không giới hạn trong một mặt phẳng duy nhất. Trái lại, trong chiến lược HKĐ, ta có thể hướng dẫn sự tấn công của địch vào vô số các mạch hóa giải quanh trung tâm.

Các mạch này được chia một cách tổng quát thành 3 nhóm:
http://img9.imageshack.us/img9/1561/machngangmachthangdung.jpg

1. Mạch ngang: Shomen Tsuki kote gaeshi ura.

2. Mạch thẳng đứng: Kaiten nage.

3. Mạch xiên: Shomen uchi ude osae ura.

Sự thay đổi chiều hướng là một ưu điểm của sự di chuyển vòng.

Thật vậy, thân hình ta khi bước theo đường thẳng, phải ngừng lại trước khi thay đổi hướng đi (1) Trái lại trong chuyển động vòng, sự thay đổi chiều hướng được thực hiện một cách tự nhiên và liên tục trên 3 chiều. Thí dụ: đòn thế Shomen tsuki Irimi nage (2).
http://img23.imageshack.us/img23/5692/newofvongcaudong12.jpg:D::D:

Sự liên tục này giúp ta thực hiện kỹ thuật với một cố gắng tối thiểu vì ta không phải chống lại lực quán tính. Nếu phối hợp tất cả các mạch hóa giải căn bản, cùng hết thảy các đường xoắn và bán xoắn hóa giải trên diễn ra quanh trung tâm của ta, thành một hình ảnh duy nhất, kết quả sẽ là một vòng cầu, che chở lấy ta đối với bất cứ một hành động tấn công nào.

V. KOSHI NAGE

Kỹ thuật này dùng hông như một cái trục để xoay lật thân hình người khác theo một cố gắng quăng nó xuống đất. Sự tập trung sức mạnh ở hông để nhấc Uke khỏi mặt đất rất đặc sắc của nền võ thuật Nhật Bản và trực tiếp dẫn xuất từ khái niệm về trung tâm Hara.

VI. UKEMI

Tính cách vòng cầu được nêu rõ ở đây.

"Vòng cầu vẫn được các vị Tổ sư các môn võ xưa kia coi như một hình ảnh toàn vẹn nhất. Nó không có những góc cạnh nhô ra mà trái lại, nó còn có tính cách linh động bởi vì bề mặt cong của nó có thể tiếp xúc được với tất cả các mặt, ở đâu nó cũng lăn được một cách tự nhiên..."

Khi lăn ra trước hay té ngửa ra sau, ta lăn tròn như một quả bóng thì ta sẽ lấy lại được thế thăng bằng đứng mà không chịu một sự tổn thương nào.

VII. IRIMI

Irimi là một hình thức rất đặc sắc của kỹ thuật HKĐ trong đó ta tiến thẳng vào đường tấn công của địch nhưng vẫn không cưỡng lại trực tiếp sức mạnh của địch. Hầu hết các đòn thế HKĐ có 2 hình thức: Irimivà Tenkan.

- Irimi: ta di chuyển thẳng vào chiều hướng nghịch lại hướng của sức mạnh của địch.

- Tenkan: ta xoay người ta và lôi cuốn theo thân hình của địch.

Thí dụ: Kata te tori, Shiho nage.

NGUYÊN TẮC VÒNG CẦU và SỰ RÈN LUYỆN NỘI TÂM

Tầm quan trọng lớn lao của sức mạnh tinh thần đã cho HKĐ một sắc thái đặc biệt. Muốn đạt được một trình độ kỹ thuật khả quan, môn sinh HKĐ không thể không biết đến các khái niệm trừu tượng. Chính các khái niệm này bao hàm nguyên tắc vòng cầu trong việc thực hành.

Một tòa nhà nguy nga đến đâu, nếu không có nền móng vững chắc, tất phải sụp đổ. Tương tự thế, sự di chuyển hình vòng trong kỹ thuật HKĐ đòi hỏi một trung tâm vững chắc. Khái niệm về nhất điểm ở bụng dưới rất quan trọng trong võ học Đông phương. Nhất điểm chính là trọng tâm của thân thể và được cho là giao điểm của tinh thần và thể xác. Tập trung tư tưởng vào Nhất điểm là đạt được đến sự hợp nhất của trí và thân mà có thể phát sinh một sức mạnh kỳ diệu.

Sức mạnh này trong HKĐ gọi là "Khí". Khi đặt căn bản của HKĐ trên Ki, Tổ sư Ueshiba đã đạt được chiến thắng tuyệt đối trong sự bất bạo động. Thật vậy, Ki là sức mạnh của thiên nhiên, sinh lực của vũ trụ. Như thế, mọi hành động, gây hấn đều đi ngược lại các định luật của thiên nhiên và luôn luôn phải thất bại.

"Hiệp khí" có nghĩa là ta phải dung hòa, phải "hiểu" đối phương. Một khi đã "hiệp" với đối phương rồi thì không còn địch thủ, không còn hận thù.

Sự áp dụng triệt để nguyên tắc vòng cầu đã cho kỹ thuật HKĐ một sắc thái đặc biệt: đòn thế uyển chuyển rất đẹp mắt, tuy nhiên không hề sút kém về phương diện mạnh mẽ và hiệu lực. Hơn nữa, khi sáng lập môn phái Hiệp Khí Đạo, Tổ sư Ueshiba đã vượt qua khỏi phương diện võ thuật thuần túy. Ngài đã cho chúng ta một con Đường, một "ĐẠO" làm người.

Trích trong nội san Hiệp khí đạo 1972
theo aiki-viet.com.vn
http://thegioivothuat.net/?m=news&c=41&id=567

Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2009

Bài Chòi

Miền Bắc có làng Quan họ, Bình Định quê tôi có làng Bài chòi - mà Bạn Bầu Dắt ở Gò Bồi (nơi nhà thơ Xuân Diệu lớn lên trong thời thơ ấu) là hình ảnh tiêu biểu mang đậm tính dân gian. Cắc rụp cắc/ Bạn Bầu Dắt/ Xài bạc cắc/ Hát lại hay/ Ai mời cũng tới”.

Đó là câu nói có vần của người dân Bình Định. Người dân quê hễ nghe tiếng trống, tiếng sanh là họ biết ngay có cuộc vui. Họ mê hát bội, bài chòi vì lẽ rất giản đơn: đó là món ăn tinh thần rất gần gũi, mộc mạc như chuyện ăn cơm với cá của dòng sông quê hương. Gò Bồi là tiểu thị trấn ven sông Hà Thanh, tên chữ là Tùng Giản thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước. Làng tôi đẹp như cô gái vùng sông nước lặng lẽ, mộc mạc nhưng đầy sức sống, luôn rạo rực một niềm yêu văn nghệ, hát bội, bài chòi. Tình yêu ấy đã thai nghén và sinh ra nhiều hình thái. Tượng trưng nhất là Bạn Bầu Dắt. Đó là gánh bài chòi mang đậm tính dân dã. Nói là gánh hát thì quá to, thật sự họ chỉ là những anh chị em ngư dân, nông dân yêu văn nghệ tự tập họp mà thành. Nếu chỉ nói về phương diện tinh thần, họ xứng đáng tượng trưng cho làng văn nghệ quê tôi - Gò Bồi “làng bài chòi”.

Đó có thể là những người dân sống trong xóm Lò Rèn nghèo nàn mà cả xóm chưa có một mái ngói nào dù nhỏ, toàn là những căn nhà lụp xụp, phải dùng chữ “chòi tranh cột sậy” mới đúng. Thế mà ẩn tàng trong cái nghèo nàn đó, chất văn nghệ ở họ lại rất phong phú, lời ca tiếng nhạc luôn vang vọng. Về đêm, nhất là những đêm trăng, họ tập trung trước nhà “Nghĩa”- là nơi người trong xóm tập họp để bàn bạc việc làng, việc ma chay - trên khoảng sân rộng chừng năm chục mét vuông vừa đủ chỗ cho người trong xóm ngồi họp. Sân hát của Bạn Bầu Dắt đấy! Họ thường hát những khúc dân ca, bài chòi, tập dượt tuồng tích. Cái gánh hát tự phát trông lỏng lẻo nhỏ nhoi là thế mà hầu như đêm nào cũng tổ chức hát, lưu diễn nhiều nơi. Khó mà biết được gánh hát có từ khi nào vì khi lớn lên tôi đã nghe, đã thấy họ diễn tuồng rồi. Phong trào văn nghệ dân gian đó đến nay vẫn còn, có lẽ đã tồn tại khoảng hơn một trăm năm.
Nhà thơ Xuân Diệu - người con của quê hương Gò Bồi - đã viết về bài chòi qua ký ức tuổi thơ mình:“... Và trên đà hồi tưởng, tôi thấy tôi với em tôi chen chúc, nghe hò bài chòi ngày Tết ở làng Văn Quang. Làng nhỏ, chợ nhỏ, đồng bào rất hiền lành, anh hô bài chòi cũng hiền. Khi ở trên các chòi dựng bằng tre, leo kheo, có người trúng “tới” và báo bằng tiếng mõ cốc cốc rằng mình được ván bài, thì anh hô, một tay đỡ cái khay đựng tiền, một chân đá lên làm ngựa, một tay ra hiệu quất roi ngựa trịnh trọng xướng:“Vâng lệnh làng đỡ lấy khay tiền/Lên tráng mã cấp cờ đệ nhất” (hoặc đệ tứ, đệ ngũ...). Theo nhịp trống cắc cụp cắc, trẻ con chúng tôi học mót đoạn được đoạn không...”
Hoặc với câu hát:
Anh nguyện cùng em, chợ Giã cho chí Cầu Đôi
Nguyền lên Cây Cốc, vạn Gò Bồi giao long.
Cũng hình ảnh ấy đã đi vào bài thơ của Xuân Diệu trong bài “Đêm ngủ ở Tuy Phước” có đoạn:
Nghe bài chòi cụp cắc ở chợ tết Văn Quang
(*)
Ôm cái cột đình, rồng lượn
Khó mà biết được gánh hát có bao nhiêu người. Tôi chỉ biết có hai người nổi bật nhất là chị Phê và anh Sáu Dân, vì họ là người có mặt thường xuyên. Ai muốn tổ chức cho vui thì mời anh Sáu hay chị Phê cũng được, có thể họ đang sinh hoạt vui chơi ở xóm Lò Rèn, mình đến mời, “dắt” về nhà. Thế là họ thu dọn đến ngay. Có lẽ vì vậy mà cái tên “Bạn Bầu Dắt” rất dân gian ấy đã khai sinh từ lúc nào không biết. Hầu như các vùng lân cận cũng có những gánh hát tương tự. Muốn tổ chức một đêm hát, chủ nhà chỉ cần chuẩn bị một ngọn đèn dầu lớn ở giữa sân, thông thường là đèn vung - là nắp đậy nồi cơm, lật ngửa đổ dầu phụng vào rồi đặt vào đó vài cái tim đèn bằng vải cũ, đốt lên thành đèn; nếu có một cây đèn măng-xông thì quý lắm. Hai chiếc chiếu, một cho diễn viên, một làm sân khấu. Thế là đêm hát bắt đầu! Tiếng cắc rụp cắc, tiếng đờn cò, tiếng trống vang lên là lũ trẻ đến ngay, ngồi xung quanh, người lớn đứng vòng ngoài xem hát. Chẳng ai bảo ai mà những tờ giấy bạc cứ lần lượt ném vào cái rổ hoặc cái nón để ở góc chiếu. Quê tôi có câu nói vần:
Bạn Bầu Dắt, xài bạc cắc/Hát lại hay, ai mời cũng tới
Diễn viên đều là nghiệp dư: Anh Sáu Dân, tay trống nổi tiếng, làm nghề kẹo kéo; chị Hai Phê bán mắm ở chợ; cháu Liên đổi nước chè quế; với một số diễn viên khác đều là nông dân chân lấm tay bùn thật sự. Thế mà họ đoàn kết và hăng hái lắm, “nhất hô bá ứng”. Có ai cần hát giúp vui, chỉ cần báo trước một buổi là kỹ lưỡng rồi, gánh hát sẽ đáp ứng ngay. Tiền thù lao độ năm, bảy ký gạo. Chủ nhà hảo tâm thì khi hát xong có nồi chè hay bát cháo khoai là hậu hĩ lắm, vui lắm!
Tuồng tập khá nhiều, nhất là tuồng cổ, lấy từ những chuyện thơ xưa như Lục Vân Tiên, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Phạm Công - Cúc Hoa. Đôi khi họ cũng hát tuồng Tàu như đoạn Quách Thái Thọ nuôi bà Lý Thần Phi trong lò gạch. Vui nhất là tuồng Nghêu - Sò - Ốc - Hến.
Ban nhạc “cây nhà lá vườn” gồm một tay trống, cây đờn cò và một cái sanh. Anh Sáu Dân luôn có mặt, kể cả những đám tang hay tế lễ. Khi lên sân khấu, ngưng tay trống, anh chỉ cầm cái sanh vừa hát vừa nhịp. Thế mà các em nhỏ và các bà thích lắm. Họ ngồi yên lặng, mắt mở tròn, miệng há hốc theo dõi. Không chỉ hò hát mà họ còn hóa trang bằng những nét rất ấn tượng với hai màu đen trắng: vôi và lọ nồi. Chỉ thế là đủ. Chẳng hạn ở tuồng Nghêu - Sò - Ốc - Hến, ông Xã với hai vệt râu, khi thì vểnh lên, khi thì cụp xuống tùy theo ý trong tuồng; Chàng Ngốc với chấm ghèn trắng ở khóe mắt trông thật ngô nghê đến buồn cười; Thị Hến, một nốt ruồi đen thật to ở khóe miệng, làm tăng vẻ chua ngoa. Đạo cụ tượng trưng nhất cho kỹ thuật hóa trang là chiếc khăn và cây gậy. Trùm Sò với chiếc khăn bắt xéo ngạnh trê tạo nên nét mặt vênh váo của kẻ tiểu nhân; Bà Xã với chiếc khăn lỏng lẻo vắt vai đu đưa phất phơ, đầy chất trai lơ của kẻ dựa dẫm vào quyền uy người khác. Đôi khi có vai công chúa thì cũng với chiếc khăn choàng ngay ngắn hai vai. Bà già thì khăn choàng hầu hoặc chiếc khăn nhỏ gút lại ở giữa làm gói trầu. Tượng trưng cho uy quyền và vũ khí là cây gậy. Gậy cầm một đầu là đao, là kiếm; cây gậy vác vai là gánh, là búa...; gậy quay vòng và múa là đánh nhau. Thật sinh động đến ngộ nghĩnh. Mỗi cách hóa trang khơi dậy trí tưởng tượng của người xem, khiến họ hát đến đâu là khán già hiểu đến đó. Đôi khi gặp những tấn tuồng gay cấn, người xem hò hét biểu lộ tình cảm của mình.
Tuồng tích người xem thuộc nằm lòng, xem rồi xem lại đến mấy lượt cũng không chán. Chẳng đêm hát nào giống đêm nào! Đêm nay ở Lò Rèn, ngày mai trước lăng Nam Hải, hoặc ở bến Vạn. Gặp những lái buôn tâm đắc ở Phan Rang, Phan Thiết, Phú Yên, họ cũng mời Bạn Bầu Dắt xuống ghe hát ngay trên mui thuyền. Người xem ngồi trên bờ sông (cừ đá) vừa hóng mát vừa thưởng thức. Thật thú vị.
Có nhiều câu hát trẻ em nghe là thuộc vì cái vui, cái lạ của nó. Chẳng hạn như bài vè đi chợ: Muốn ăn đi xuống/muốn uống đi lên/ Ăn rẻ mặc bền/ xin mời đi chợ... Đi chợ Gò Bồi, mua tôm mua cá/ Đi chợ Đập Đá, mua gạch tổ ong/ Đi chợ Lòng Sông, mua phểnh mua sú/ Đi chợ Gò Củ, mua mì mua lang/ Đi chợ Đại An, mua xoài mua mít/ Chợ nào đông nghịt/ là chợ Gò Chàm/ Thấy rẻ đừng ham/ mà lên Cây Cốc/ Hàng gỗ hàng mộc, trở về Cây Da...
Xem qua một đêm hát, tất cả những nét văn hóa làng thôn được thể hiện rất rõ. Từ cách tổ chức vừa đơn sơ mà vẫn xôm tụ, lỏng lẻo mà rất nhiệt tình. Nhạc công vừa là ca sĩ kiêm cả kép rằn, kép trắng. Một người kiêm rất nhiều vai. Bạn Bầu Dắt ở quê tôi hoạt động khá mạnh, nhịp nhàng và nhiệt tình! Họ xuất phát từ lòng yêu văn nghệ. Họ tự nguyện, không ai ép buộc và cũng chẳng vì đồng tiền. Người xem được ngồi thoải mái, nghe rõ từng lời ca, giọng hát; nhìn rõ từng nét mặt, từng cái láy mắt của diễn viên. Đối với họ - Bạn Bầu Dắt là hiện thân của làng bài chòi Gò Bồi.
Bạn Bầu Dắt với những lời ca, tiếng hát mang đậm chất dân gian còn là nguồn vui của dân chúng, là nguồn hứng thú sáng tác của các cụ ngày xưa. Những bài vè, bài thơ lục bát ấy được Bạn bầu dắt truyền đạt khắp người dân quê. Những ngày kháng chiến, họ luôn sưu tầm những thơ ca mang chủ trương chính sách của Cách mạng đem phổ biến trong quần chúng. Hình ảnh và công việc hô hát của họ ảnh hưởng đến lớp cần lao và trẻ em. Đây đó từng tốp trẻ cũng tự tụ tập, với những chiếc mũ bằng lá, gậy bằng cành tre chúng cũng bi bô tập hát. Những mầm non văn nghệ cũng từ đó mà ra.
Sau ngày giải phóng, theo đà phấn khởi chung cùng với nhịp sống mới, những đám trẻ trước đây giờ đã trưởng thành lại thành đội văn nghệ nghiệp dư của xã. Tuy họ hát tân nhạc phục vụ cuộc sống, sản xuất, nhưng cái mầm mống từ văn nghệ bài chòi vẫn âm ỉ trong tim. Họ luôn sáng tác những vở ca kịch qua làn điệu bài chòi. Đúng là rượu mới trong bình cũ, cổ kính mà ngon. Ảnh hưởng của bài chòi đã phát xuất từ câu nói quàng, nói vần của các bà, các chị mà biến thành ca dao, tục ngữ và cả hồn thơ, chất thơ. Những câu hát mang âm tiết dân gian ấy đã đi vào câu hò trên sông:
Ghe lui còn để dấu giầm
Nẫu về xứ nẫu âm thầm nhớ thương.
Hoặc:
Khoan khoan ớ bạn chèo đò
Ớ anh cầm lái (để cho tôi) dặn dò mấy câu
Câu thương, câu đợi, câu sầu
Câu tình câu nghĩa một bầu nhớ nhung.


N.P.L

Thứ Tư, 5 tháng 8, 2009

Hoài Linh - Người gốc Gò Bồi?

Tiểu Sử Hoài Linh (Hoài Linh)
Hoài Linh sinh ngày 18 tháng 12 năm 1969 tại Cam Ranh trong một gia đình có tất cả 6 người con (ba trai, ba gái) và anh là con thứ ba và là con trai trưởng trong gia đình. Bố mẹ anh quê quán ở Đại Lộc thuộc tỉnh Quảng Nam. Ngoài một người chị cả đã có gia đình còn ở lại Việt Nam, gia đình anh đã sang Mỹ theo diện HO vào năm 1995 vì trước đó ba anh phục vụ trong lực lượng Đặc Biệt với chức vụ đại uý, bị tù cải tạo 6 năm tại Suối Máu (Biên Hòa), cho đến năm 1982 mới được tha về. Mẹ anh điều hành một nhà hộ sinh tư ở Cam Ranh. Hoài Linh sống ở Cam Ranh cho đến năm 1975 mới theo gia đình di tản vào Long Khánh, anh học hết bậc trung học ở trường phổ thông trung học Thống Nhất A (Trảng Bom). Vào năm 1988, gia đình anh trở về Cam Ranh để lo thủ tục xin hoàn lại nhà cửa bị tịch thu, sau đó mới về Sài Gòn vào năm 1992 cho đến ngày được sang Mỹ vào cuối năm 1993. Trong thời gian này Hoài Linh gia nhập đoàn ca múa nhạc Ponaga, sau đó theo học tại trường múa chuyên tu (tu nghiệp chuyên môn) cho đến năm 1990 lại quay về với đoàn múa.
Khi Hoài Linh có ý định theo đoàn múa, gia đình anh đã tỏ ra không hài lòng và tìm cách ngăn cản vì bố mẹ anh muốn anh theo ngành sư phạm, nhưng vì vấn đề lý lịch nên không thành. "Nếu mà làm thấy giáo thì bây giờ mặt cháu đạo mạo lắm chứ không như bây giờ, đạo mạo một chút thôi nhưng mà vẫn quậy!", Hoài Linh nói đùa như vậy. Trong thời gian cộng tác với đoàn muá Ponaga, anh đã lưu diễn khắp các tỉnh miền Trung và một số tỉnh miền Nam. Về múa Hoài Linh được sự chỉ dẫn của vũ sư Đặng Hùng trong khi về dân ca thì anh tự học lấỵ Vào năm 1991, anh tham dự cuộc thi "Những Giọng Hát Hay" tại Nha Trang và được giải thưởng. Anh và bạn bè kéo nhau ra bãi biển uống nước, tại đây anh gặp Thanh Lộc, một diễn viên của ban kịch tỉnh Khánh Hòa mới giải tán và gia nhập đoàn Ponaga, rủ anh phối hợp để làm một cặp song tấu hài diễn chung trong chương trình của đoàn. Hoài Linh vui vẻ nhận lời, hai anh em diễn thử và có kết quả tốt. Rồi từ đó anh chính thức bước vào lãnh vực tấu hài, rất thích hợp với bản tính của anh là người thường hay đùa giỡn trong gia đình ngay từ nhỏ. Tuy nhiên Hoài Linh cho biết vẫn run khi diễn hài lần đầu tiên trước khán giả vì "mình giỡn cho khán giả nó khác, còn giỡn ở nhà nó khác". Nhưng lần tấu hài đầu tiên tại Diên Khánh đó với màn "Tô Ánh Nguyệt Tân Thời" với Thanh Lộc, anh đã được khán giả cổ võ khiến anh lên tinh thần và lấy lại được bình tĩnh và tự tin trong những lần xuất hiện sau. Hoài Linh còn có một năng khiếu đặc biệt khác là nói được nhiều giọng điạ phương Việt Nam. Anh cho biết là khi di tản vào ở Long Khánh đã có dịp nói chuyện với rất nhiều người thuộc đủ các miền cũng như anh có bạn bè người Bắc, Trung, Nam, ngoài ra anh cũng cho biết thêm ông cố anh là người Bình Định (gốc Gò Bồi), có thể nhờ vậy cộng với một năng khiếu sẵn có nên Hoài Linh dễ thu nhập được để bắt chước được giọng của nhiều miền trong khi thường ngày anh nói Đà Nẵng ở gia đình. Ngoài khả năng về múa, hát dân ca, tấu hài, Hoài Linh còn hát được cả tân nhạc. Đối với anh, ngành hài là thích hợp nhất , tuy nhiên phải là loại hài nghiêng về dân gian. Hơn thế nữa anh rất thích dân ca. Anh đã tự soạn một số kịch bản tấu hài để trình diễn và thu CD, những tiết mục này được nhiều khán giả khen ngợi vì tính hài hước lấy bối cảnh là cuộc sống hàng ngày gần gũi.
Khi mới sang Mỹ, Hoài linh và gia đình ở Orlando, Florida khoảng 10 tháng. Ngay sau đó đã được mời điều khiển chương trình trình diễn trong một tiệc cưới tại nhà hàng Sài Gòn để rồi sau đó liên tục được mời cộng tác thường trực tại đây cũng như được mời đi show nhiều nơi. Sau đó vào khoảng tháng 9 năm 1994, một mình Hoài Linh bay về Cali sinh hoạt. Quyết định này đến với anh trong một buổi đi hát ở Tiểu Bang Florida, tại đây anh gặp Thanh Tuyền và Trizzie Phương Trinh và "hai người đó đã xúi cháu qua Cali", ngay ngày hôm sau anh đã từ giã Florida và cùng với bà dì tên Lệ Ẩn - trong thời gian xuống thăm gia đình anh - về ở luôn California cho đến bây giờ. Với sự bảo lãnh của dì, anh được bố mẹ đồng ý cho đến một nơi xa lạ mà anh hoàn toàn chưa hình dung như thế nào mà chỉ nghe nói sơ về sự sinh hoạt văn nghệ mạnh mẽ tại đây.
Ở California, Hoài Linh cư ngụ tại nhà ông cậu thứ 10 ở Los Angeles và 2 tuần sau anh mới có dịp xuống Little Saigon và được Nhật Tùng đưa đến quán cà phê Tao Nhân. Tại quán này anh đã lên tấu hài bài "Truyện Tình Karaoke" và một bài tân nhạc. Khán giả rất thích thú qua những tiếc mục của anh, nhất là chủ quán là ca sĩ Thiên Hương, cũng là người Bình Định. Đêm hôm đó cũng có mặt tay viết kịch bản được nhiều người biết tới hiện nay là Ngô Tấn Triển, nghệ thuật diễn xuất Hoài Linh đã được nhà viết kịch bản này để ý tới và sáng tác nhiều kịch bản cho Hoài Linh diễn sau này. Một tuần sau, anh đã gặp Vân Sơn và được mời cộng tác sau khi Bảo Liêm tách rời từ mấy tháng trước. Hoài Linh đã nhận lời ngay vì "giữa hài với hài nó dễ nẩy sinh tình cảm". Đến tháng 10 năm 1994, cặp Vân Sơn- Hoài Linh chính thức diễn chung với nhau trong chương trình văn nghệ do một chùa tổ chức ở Orange County. Kể từ cuối năm 1995, Hoài Linh cộng tác độc quyền cho Vân Sơn Productions trong những sản phẩm video (kể từ video số 4) và audio, cũng như cùng nhau có mặt tại rất nhiều chương trình đại nhạc hội để trở thành cặp tấu hài được rất nhiều người ưa thích.
Tháng 8 năm 1996, Hoài Linh về VN thăm người yêu là người anh đã quen một thời gian trước khi rời VN. Lúc đó Hoài Linh thường đi hát karaoke tại nhà người yêu là nơi cho mướn karaoke, trong khi người vợ tương lai của anh không hề biết anh chàng ốm tong teo đó là một diễn viên tấu hài. Sau này người yêu của anh mới biết được do những video phổ biến tại Việt Nam và "bà ấy chỉ nói là mắc cưới quá, không khen mà cũng không chê", như lời Hoài Linh kể. Để kỷ niệm cho mối tình của mình, anh đã đặt tựa đề "Tình Karaoke" cho một CD do trung tâm Tú Quỳnh phát hành để "nhớ lại tình xưa". Chuyến về VN đó của anh là để chính thức thành hôn với Thanh Hương và bảo lãnh sang sống chung tại Hoa Kỳ từ tháng 4 năm 1997. Hiện nay hai người cư ngụ tại thành phố Garden Grove (california).
Ngoài việc lưu diễn, thu video hoặc audio, Hoài Linh còn dành nhiều thì giờ cho việc nghiên cứu về dân ca, là một bộ môn anh rất thích. Trong thời gian ở VN, anh trở về Đà Nẵng để xin những nghệ nhân ở đây một số tài liệu dân ca miền Quảng Nam, Đà Nẵng rất có giá trị đưa sang Mỹ, dựa trên đó để sáng tác và coi như là cái vốn truyền lại cho những người đi sau để bảo tồn di sản văn hoá quý báu.
Source: Trường Kỳ, VietMedia

Duyên thơ Gò Bồi

Gò Bồi, ngôi làng ven sông, một thị tứ nhỏ bé mà thơ mộng, đã gắn bó duyên thơ với nhiều nhà thơ. Từ các cụ khoa bảng ngày xưa, đến Đào Tấn, rồi Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và nhiều tên tuổi khác.


Ai đã một lần về Gò Bồi, hẳn không quên dòng sông hai mùa nước: đục ngọt, mặn trong. Dòng sông xanh, hai bên bờ đầy tre, đêm đêm vang vọng câu hò với nhịp chèo khuya. Âm thanh êm ả và tình tứ, với thanh sắc rất riêng của một vùng sông kề biển. Mời bạn đi thử một đêm đò dọc từ Gò Bồi về Quy Nhơn:

Gò Bồi cách Giã một đêm trăng

Nồm lay ánh bạc sóng ngân mạn thuyền.

Trên bờ sông, cửa nhà san sát, nghiêng bóng soi mình. Cảnh trên biển, dưới thuyền tấp nập buôn bán. Cách chợ vài dặm về phía Tây, cổ tháp Bình Lâm sừng sững giữa thôn xóm đầy tre xanh. Chùa chiền không ít, nhưng trầm tư và lặng lẽ. Cầu tre dài bắc qua sông, gió chiều lồng lộng, tựa vào thành cầu chờ trăng lên, tình thơ thấy nao nao. Sông nước đã lắng vào lòng người và có sức lôi cuốn lạ. Chẳng thế mà nhiều nhà giáo, nhà thơ ngày xưa đã về đây trú ngụ và lập nghiệp, như ông Giáo Cửu, cụ Tú Thọ…

Gò Bồi trên bến dưới thuyền

Nồm đưa khách đến trăng nghiêng soi mời

Gia đình ông Đào Đức Ngạc (thân sinh cụ Đào Tấn) đã ngụ tại Gò Bồi, sau vì hương lý địa phương kỳ thị, nên cụ phải trở về làng Vinh Thạnh. Thấy những bất bình, cụ viết:

Gò Bồi dân chúng đã kêu vang

Hết việc quan gia đến việc làng

Xâu thuế quanh năm lo muốn chết

Mà đêm nằm ngủ cũng không an

(Theo tài liệu của Mạc Như Tòng)

Ngoài cụ Đào, còn rất nhiều nhà khoa bảng lúc bấy giờ, như cụ Huấn Lâm, cụ cử Trang, cụ nghè Bốn, cụ nghè Sáu (cậu ruột nhà thơ Xuân Diệu) và nhiều cụ Tú khác đã sinh trưởng ở Gò Bồi và sáng tác nhiều bài thơ chan chứa tình cảm, mà nay đã thất lạc nhiều.

Gò Bồi không những là thắng cảnh, mà còn là nơi Xuân Diệu chào đời, là nơi chôn nhau cắt rốn, gắn với tuổi thơ ông. Xuân Diệu đã viết nhiều bài thơ về quê ngoại thật nồng nàn, tha thiết:

Quê ngoại là gì, quê ngoại là ai?

Mà tôi xa cách ba chục năm hoài

Bồi hồi sóng nước buâng khuâng gió

Đầm đậm cá chuông thơm thơm khoai

Nhắc đến Xuân Diệu mà quên nhắc Huy Cận quả là một điều thiếu sót vì tình bạn nửa thế kỷ của họ. Gò Bồi đã chào đón ông Huy Cận từ thuở “Lửa thiêng”. Trong bài giới thiệu tập thơ “Gò Bồi quê mẹ”, ông viết:

“Tôi đã về thăm vạn Gò Bồi vài lần cùng anh Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, đi đò dọc từ Quy Nhơn.

Tôi đã được bà ngoại cho ăn cơm và bánh quê hương như là cháu của ông… Ôi cuộc đời sao có những tình cảm dằng dặc như vậy nó làm nên sướng vui đau khổ một đời. Bạn tôi mất đi nhưng vạn Gò Bồi còn đó và vì vạn Gò Bồi còn đó nên bạn tôi mãi mãi còn về”.

Ngày khánh thành nhà tưởng niệm Xuân Diệu, Huy Cận say sưa nhắc lại những kỷ niệm của tình bạn và đã vui sướng đón nhận Gò Bồi làm quê hương thứ hai của mình.

Gò Bồi tuy nhỏ bé, nhưng có đến hai bà mẹ của hai nhà thơ lớn đã từng gắn bó nơi đây. Bà Nguyễn Thị Hiệp thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu, cô hàng nước mắm một thời “Sắc nước hương trời, kết duyên cùng cụ tú Ngô Xuân Thọ từ Hà Tĩnh vào đây dạy học. Chuyện tình thật đẹp, nhưng cũng đầy nước mắt. Sau khi xa chồng, cụ nương náu nơi nhà ngoại ở Gò Bồi. Mãi đến năm 1954, cụ tập kết ra Bắc ở với Xuân Diệu cho đến ngày qua đời.

Bà Nguyễn Thị Duy (thân mẫu nhà thơ Hàn Mặc Tử) những ngày cuối đời cũng đã âm thầm sống nơi bến Chuông, bên cạnh hồ sen, ven sông Gò Bồi. Ngày nay, mộ bà hiện còn tại thôn Kim Giản, Gò Bồi. Và cũng chính nơi đây, năm 1939 Hàn Mặc Tử đã ẩn náu ở nơi đây để trị bệnh. Anh Lê Hoàn, người hàng xóm, một cựu học sinh Trường Collège Quy Nhơn đã chép được những bài thơ, trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ”:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Phải chăng hình ảnh Gò Bồi đã đi vào thơ anh qua hai câu thơ cuối của bài thơ này.

Duyên thơ Gò Bồi không dừng ở các nhà thơ tên tuổi, mà lan tỏa khắp vùng Gò Bồi và đi sâu vào lòng người yêu thơ. Niềm yêu ấy đã thể hiện qua tập thơ “Gò Bồi quê mẹ” xuất bản nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của nhà thơ Xuân Diệu. Trong tập thơ, có hơn 10 tác giả là người Gò Bồi. Họ đã viết với tất cả tấm lòng như lời giới thiệu của nhà thơ Huy Cận: “Tôi không phải là người Gò Bồi mà đọc bài thơ các câu thơ tập hợp trong quyển này tôi bồi hồi xúc động và tôi cảm thấy như mình cũng gắn bó máu thịt vào mảnh đất tình nghĩa này, chắc hẳn vì các bạn viết về Gò Bồi với tất cả cảm tình sâu lắng về quê hương nồng đậm này, nồng đậm không chỉ vì hương vị thơm ngon của nước mắm Gò Bồi nổi tiếng mà trước hết là vì vùng quê trên bến dưới thuyền này quy tụ bao nhiêu nghĩa tình truyền thống…”.

  • Nguyễn Phúc Liêm

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2009

Thương nhớ Gò Bồi


Gò Bồi bây giờ là một làng quê nông nghiệp, họat động thương mại dịch vụ chủ yếu gói gọn ở một quãng phố chợ dọc bờ sông Gò Bồi. Mấy ai biết rằng hơn trăm năm trước, bên dòng sông này là vùng cảng thị Gò Bồi sầm uất với những dãy phố tấp nập trên bờ, còn dưới sông là cảnh những thương thuyền chen chúc từ khắp nơi đổ về ...


Theo PTS Đỗ Bang (Đại học Huế) thì vào khoảng thế kỷ 16 –17 trên sông Âm Phù (một đọan của sông Kôn, nhánh chảy từ cầu Tân An về cầu Gò Bồi ngày nay) đã hình thành cảng - thị Nước Mặn, đây chính là trung tâm kinh tế của Phủ Quy Nhơn ngày ấy. Khi đó Nước Mặn đã xuất hịên trên những hải đồ mậu dịch của người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, được nhiều người mô tả là một đô thị rộng rãi, trù phú xứng đáng là một thành phố (ville) hay một cảng (port). Hành trình hàng hải lúc ấy có lẽ đã đi theo trục: Biển Đông - Vịnh Quy Nhơn – Đầm Thị Nại – ngược sông Gò Bồi lên cảng thị Nước Mặn.

Ngày ấy nếu Hội An (Quảng Nam), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế) là thương cảng quốc tế nổi tiếng thì Nước Mặn lại giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu của nền nội thương toàn xứ Đàng Trong và cả một bộ phận không nhỏ kinh tế Đàng Ngòai. Đến thế kỷ 18, phù sa sông Kôn không tải được ra biển đã đọng lại ở dòng sông, đáy sông bị nâng dần lên, tàu thuyền không tiến sâu vào nội địa được và cảng thị Nước Mặn chìm dần vào quên lãng.

Ghe thuyền không lên đến Nước Mặn nhưng nhu cầu hàng hóa vẫn còn, vẫn cần một bến cảng thay thế và Gò Bồi đã hình thành để tiếp nhận luồng thương nghiệp giàu có này. Tuy không còn tầm vóc như Nước Mặn (hầu như không có tàu buôn ngoại quốc vào Gò Bồi) nhưng Gò Bồi vẫn là khu vực mậu dịch nổi tiếng khắp cả nước, và nó tồn tại cho đến quãng đầu những năm 60 của thế kỷ 20 mới chấm dứt.

Trong nhiều thư tịch cổ, Gò Bồi được hình dung như sau: bến sông được xây bằng đá xanh, ghe thuyền cập bến xếp dỡ hàng hóa rất thuận tiện, trên bến có rất nhiều tiệm buôn của người Hoa, người Ấn Độ và cố nhiên là của người Việt. Chợ Gò Bồi vào những ngày chính phiên có rất đông người đến giao dịch, buôn bán, ghe thuyền nhiều tỉnh xa như Bình Thuận, Nghệ An, Hà Tĩnh... cũng về đây ăn hàng. Ông Phan Quán – một cựu dân Gò Bồi kể lại: "Đến quãng những năm 1945-1946 thì Gò Bồi vẫn còn sầm uất lắm, thậm chí quy mô buôn bán giao dịch còn mạnh hơn cả ở Quy Nhơn. Thuyền từ trong Nam Bộ chở ra đây những sản vật miền Nam, ghe bầu của Phan Thiết, Phú Quốc chờ nước bổi, muối ăn ra trao đổi, buôn bán. Dưới bến tàu bè san sát, trên bờ hàng dãy dài tiệm buôn chen chúc cùng những kho vựa hàng hóa. Các hiệu buôn nổi tiếng lúc ấy có: Thạch Thân, Lợi Thêm (tạp hóa), Tú Bốn, Quy Sanh (thuốc Bắc), Văn Long, Tân Việt (buôn bán vàng) ... Ngay từ năm 1959 Gò Bồi đã có hiệu "chớp ảnh" Nhơn Thọ, chủ hiệu sắm được máy phát điện đem về thắp sáng cả một vùng ... ". Bà Huỳnh Thị Đào (Tân Giảng – Phước Hòa) nhớ lại: "Ngày còn trẻ tôi đã chứng kiến cảnh ghe bầu Bình Thuận cỡ lớn dài 20-30 m, đón gió nồm dàn hàng ngang một lần 5-7 chiếc cùng tiến vào cửa sông để ngược lên Gò Bồi. Nên nhớ là cách đây chừng 60-70 năm thuyền buôn hàng trăm tấn còn ngược sông lên đến tận vùng An Thái, Nhơn Khánh kia đấy".

Với vị trí đặc biệt của mình Gò Bồi trở thành trung điểm của các luồng thương mại: Từ Phú Yên ra đến Quảng Ngãi và từ Tây Nguyên xuống đồng bằng miền Trung. Thế rồi dòng sông tiếp tục bị bồi lấp trong khi con người không có nỗ lực nào để khơi dòng, thuyền bè ra vào phải chọn lúc triều cường. Chiến tranh và những biến động của lịch sử sau đó đã khiến Gò Bồi mất đi vị trí của mình. Đến quãng những năm 1960-1964 thì cảnh tấp nập trên bến dưới thuyền san sát của Gò Bồi chỉ còn trong ký ức của khách thương hồ và trong niềm tiếc nuối của thị dân Gò Bồi ...

Gò Bồi hiện nay chỉ còn là trung tâm của một xã Phước Hòa (Tuy Phước). Tuy nhiên do nằm ở vị trí chiến lược trên tuyến kinh tế mạn Đông Tuy Phước, Phù Cát nên trong tương lai khi hệ thống đường ven biển của tỉnh Bình Định hoàn thành, Gò Bồi sẽ có nhiều cơ may để tìm lại vinh quang xưa.

Đông A - Báo Bình Định http://www.baobinhdinh.com.vn/568/2003/4/2869/

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2009

Cờ Vua - Luật Chơi

* Cách di chuyển các quân : Hậu, Xe, Tượng, Mã, Chốt. * Hậu di chuyển theo hàng ngang, cột dọc, đường chéo (một hoặc nhiều ô). * Xe di chuyển theo hàng ngang, cột dọc (một hoặc nhiều ô). * Tượng di chuyển theo đường chéo (một hoặc nhiều ô). * Mã di chuyển theo đường chéo Hình chữ nhật 3ôx2ô * Chốt di chuyển về phía trước 1 ô . Khi mới bắt đầu đi, chốt được quyền đi 2ô , nhưng sau đó chỉ đi một ô mà thôi. Chốt không đi ngang, không đi thụt lùi (Hình 2). * Cách di chuyển quân Vua: Vua di chuyển theo hàng ngang, cột dọc, đường chéo (mỗi lần một ô).
* Cách ăn quân : Trên đường di chuyển nếu gặp quân đối phương cản đường thì có thể ăn quân này bằng cách lấy quân đó ra và đặt quân mình vào thế chỗ.