Thứ Hai, 29 tháng 6, 2009

Thương nhớ Gò Bồi


Gò Bồi bây giờ là một làng quê nông nghiệp, họat động thương mại dịch vụ chủ yếu gói gọn ở một quãng phố chợ dọc bờ sông Gò Bồi. Mấy ai biết rằng hơn trăm năm trước, bên dòng sông này là vùng cảng thị Gò Bồi sầm uất với những dãy phố tấp nập trên bờ, còn dưới sông là cảnh những thương thuyền chen chúc từ khắp nơi đổ về ...


Theo PTS Đỗ Bang (Đại học Huế) thì vào khoảng thế kỷ 16 –17 trên sông Âm Phù (một đọan của sông Kôn, nhánh chảy từ cầu Tân An về cầu Gò Bồi ngày nay) đã hình thành cảng - thị Nước Mặn, đây chính là trung tâm kinh tế của Phủ Quy Nhơn ngày ấy. Khi đó Nước Mặn đã xuất hịên trên những hải đồ mậu dịch của người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, được nhiều người mô tả là một đô thị rộng rãi, trù phú xứng đáng là một thành phố (ville) hay một cảng (port). Hành trình hàng hải lúc ấy có lẽ đã đi theo trục: Biển Đông - Vịnh Quy Nhơn – Đầm Thị Nại – ngược sông Gò Bồi lên cảng thị Nước Mặn.

Ngày ấy nếu Hội An (Quảng Nam), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế) là thương cảng quốc tế nổi tiếng thì Nước Mặn lại giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu của nền nội thương toàn xứ Đàng Trong và cả một bộ phận không nhỏ kinh tế Đàng Ngòai. Đến thế kỷ 18, phù sa sông Kôn không tải được ra biển đã đọng lại ở dòng sông, đáy sông bị nâng dần lên, tàu thuyền không tiến sâu vào nội địa được và cảng thị Nước Mặn chìm dần vào quên lãng.

Ghe thuyền không lên đến Nước Mặn nhưng nhu cầu hàng hóa vẫn còn, vẫn cần một bến cảng thay thế và Gò Bồi đã hình thành để tiếp nhận luồng thương nghiệp giàu có này. Tuy không còn tầm vóc như Nước Mặn (hầu như không có tàu buôn ngoại quốc vào Gò Bồi) nhưng Gò Bồi vẫn là khu vực mậu dịch nổi tiếng khắp cả nước, và nó tồn tại cho đến quãng đầu những năm 60 của thế kỷ 20 mới chấm dứt.

Trong nhiều thư tịch cổ, Gò Bồi được hình dung như sau: bến sông được xây bằng đá xanh, ghe thuyền cập bến xếp dỡ hàng hóa rất thuận tiện, trên bến có rất nhiều tiệm buôn của người Hoa, người Ấn Độ và cố nhiên là của người Việt. Chợ Gò Bồi vào những ngày chính phiên có rất đông người đến giao dịch, buôn bán, ghe thuyền nhiều tỉnh xa như Bình Thuận, Nghệ An, Hà Tĩnh... cũng về đây ăn hàng. Ông Phan Quán – một cựu dân Gò Bồi kể lại: "Đến quãng những năm 1945-1946 thì Gò Bồi vẫn còn sầm uất lắm, thậm chí quy mô buôn bán giao dịch còn mạnh hơn cả ở Quy Nhơn. Thuyền từ trong Nam Bộ chở ra đây những sản vật miền Nam, ghe bầu của Phan Thiết, Phú Quốc chờ nước bổi, muối ăn ra trao đổi, buôn bán. Dưới bến tàu bè san sát, trên bờ hàng dãy dài tiệm buôn chen chúc cùng những kho vựa hàng hóa. Các hiệu buôn nổi tiếng lúc ấy có: Thạch Thân, Lợi Thêm (tạp hóa), Tú Bốn, Quy Sanh (thuốc Bắc), Văn Long, Tân Việt (buôn bán vàng) ... Ngay từ năm 1959 Gò Bồi đã có hiệu "chớp ảnh" Nhơn Thọ, chủ hiệu sắm được máy phát điện đem về thắp sáng cả một vùng ... ". Bà Huỳnh Thị Đào (Tân Giảng – Phước Hòa) nhớ lại: "Ngày còn trẻ tôi đã chứng kiến cảnh ghe bầu Bình Thuận cỡ lớn dài 20-30 m, đón gió nồm dàn hàng ngang một lần 5-7 chiếc cùng tiến vào cửa sông để ngược lên Gò Bồi. Nên nhớ là cách đây chừng 60-70 năm thuyền buôn hàng trăm tấn còn ngược sông lên đến tận vùng An Thái, Nhơn Khánh kia đấy".

Với vị trí đặc biệt của mình Gò Bồi trở thành trung điểm của các luồng thương mại: Từ Phú Yên ra đến Quảng Ngãi và từ Tây Nguyên xuống đồng bằng miền Trung. Thế rồi dòng sông tiếp tục bị bồi lấp trong khi con người không có nỗ lực nào để khơi dòng, thuyền bè ra vào phải chọn lúc triều cường. Chiến tranh và những biến động của lịch sử sau đó đã khiến Gò Bồi mất đi vị trí của mình. Đến quãng những năm 1960-1964 thì cảnh tấp nập trên bến dưới thuyền san sát của Gò Bồi chỉ còn trong ký ức của khách thương hồ và trong niềm tiếc nuối của thị dân Gò Bồi ...

Gò Bồi hiện nay chỉ còn là trung tâm của một xã Phước Hòa (Tuy Phước). Tuy nhiên do nằm ở vị trí chiến lược trên tuyến kinh tế mạn Đông Tuy Phước, Phù Cát nên trong tương lai khi hệ thống đường ven biển của tỉnh Bình Định hoàn thành, Gò Bồi sẽ có nhiều cơ may để tìm lại vinh quang xưa.

Đông A - Báo Bình Định http://www.baobinhdinh.com.vn/568/2003/4/2869/

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2009

Cờ Vua - Luật Chơi

* Cách di chuyển các quân : Hậu, Xe, Tượng, Mã, Chốt. * Hậu di chuyển theo hàng ngang, cột dọc, đường chéo (một hoặc nhiều ô). * Xe di chuyển theo hàng ngang, cột dọc (một hoặc nhiều ô). * Tượng di chuyển theo đường chéo (một hoặc nhiều ô). * Mã di chuyển theo đường chéo Hình chữ nhật 3ôx2ô * Chốt di chuyển về phía trước 1 ô . Khi mới bắt đầu đi, chốt được quyền đi 2ô , nhưng sau đó chỉ đi một ô mà thôi. Chốt không đi ngang, không đi thụt lùi (Hình 2). * Cách di chuyển quân Vua: Vua di chuyển theo hàng ngang, cột dọc, đường chéo (mỗi lần một ô).
* Cách ăn quân : Trên đường di chuyển nếu gặp quân đối phương cản đường thì có thể ăn quân này bằng cách lấy quân đó ra và đặt quân mình vào thế chỗ.

Cờ Vua - Bàn Cờ, Quân Cờ, Ký hiệu

BÀN CỜ, QUÂN CỜ, KÝ HIỆU

1. Bàn cờ: gồm 64 ô vuông bằng nhau xen kẻ hai màu đậm, nhạt.

*Khi thi đấu bàn cờ được đặt giữa hai đấu thủ sao cho ô góc tay trái của đấu thủ là ô màu đen .

*Tám (8) dãy ô theo chiều dọc bàn cờ gọi là “cột dọc”, được kí hiệu là cột”a”, cột”b”, cột”c”, cột”d”, cột”e”, cột”f”, cột”g”, và cột”h”

*Tám (8) dãy ô theo chiều ngang bàn cờ gọi là “hàng ngang”, được kí hiệu tuần tự là hàng 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, và hàng 8 .

*Đường nối các ô cùng màu dính vào nhau ở góc gọi là “đường chéo”. Có 13 đường chéo màu đen và 13 đường chéo màu trắng từ 2 ô như b1-a2, g8-h7 đến 8 ô như a1-h8, h1-a8. Các đường chéo a1-h8 và h1-a8 còn gọi là hai đường chéo lớn.

2.Quân cờ: có tất cả 32 quân cờ. Bắt đầu mỗi đấu thủ được cầm 16 quân màu nhạt (trắng) và 16 quân màu sẫm (đen).

3.Ký hiệu: 16 quân cờ gồm 1 quân Vua viết tắc là V 1 quân Hậu viết tắc là H

TRẮNG 2 quân Xe viết tắc là X

2 quân Tượng viết tắc là T

2 quân Mã viết tắc là M 8 quân Chốt không có viết tắc

1 quân Vua viết tắc là V

1 quân Hậu viết tắc là H

ĐEN 2 quân Xe viết tắc là X

2 quân Tượng viết tắc là T

2 quân Mã viết tắc là M

8 quân Chốt không có viết tắc

* Chốt chỉ ghi ô mà nó đang đứng và ô mà nó sẽ đến ,hoặc ăn quân (không có viết tắc). Ví dụ: Chốt đứng ở vị trí ban đầu là e2 , khi nó đi đến ô e4 thì sẽ ghi là : 1.e2-e4 hoặc 1.e4 . Không phải ghi là 1. Chốt e4

* Cách đọc tên 1 ô cờ : Vì mỗi một ô cờ đều nằm trên cột dọc và hàng ngang nên người ta lấy giao điểm cột - hàng để gọi tên ô cờ đó.

Ví dụ: ô a4 là giao điểm của cột a và hàng 4. ô b5 là giao điểm của cột b và hàng 5. Đường chéo được gọi tên bằng 2 ô ở đầu và cuối như “a1-h8”, “c8-h3” .v.v.

* Trung Tâm và Hai Cánh : Trung tâm là các ô ở giữa bàn cờ . Người ta chia Trung Tâm thành 2 phần: 1. Trung tâm chính gồm 4 ô là: e4-d4-e5-d5 2. Trung tâm mở rộng gồm 12 ô :c3-c4-c5-c6-d6-e6-f6-f5-f4-f3-e3-d3. Thông thường khi nói đến trung tâm là ám chỉ đến trung tâm mở rộng.

* Từ hàng ngang thứ 8 đến hàng ngang thứ 5 là không gian (lãnh thổ) của bên Đen

* Từ hàng ngang thứ 1 đến hàng ngang thứ 4 là không gian (lãnh thổ) bên Trắng .

* Từ cột “a” qua cột “d” gọi là Cánh Hậu

* Từ cột “e” qua cột “h” gọi là Cánh Vua .

* Chốt đứng trước Vua còn gọi là “chốt vua” ví dụ như chốt e2. Tương tự có “chốt hậu”, “chốt xe”, “chốt mã”, “chốt tượng”.

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2009

Cờ Vua

Cờ Tướng thì tôi biết chơi khi chập chững vào mẫu giáo, còn Cờ Vua mãi đến những năm học cấp 2 anh tôi mới mua cho bộ cờ và cuốn sách để tôi tự học (Lúc đó ở vùng thôn quê các trường không dạy môn cờ này và cũng chẳng có mấy ai biết chơi).Ngày đó tôi tự tìm tòi học chơi 1 mình và mãi đến hè mới có dịp đấu với 1 anh cùng làng (anh này lúc đó học ĐH Bách Khoa Đà Nẵng).Vào Đại học tôi cũng không có dịp thử sức môn cờ này.Tôi cũng khá lâu rồi không chơi cờ này, cờ Tướng thì thi thoảng có chơi. Giờ muốn dạy cho con , cháu chơi cờ cho bài bản mà luật thì quên mất, nên có tìm được tài liệu trên http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=9539

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2009

Xuân Diệu và quê mẹ

Nhiều người Bình Định nhận xét “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, “ông hoàng thơ tình Việt Nam” có một khuôn mặt rất “nẫu”, tức rất Bình Định, với nét đẹp cao sang mà hồn hậu, tinh quái mà ngây thơ, mơ màng nhưng ngay thực. Chẳng biết Xuân Diệu nghĩ sao nếu nghe nhận xét này của đồng hương, nhưng sinh thơi, trong nhiều bài viết và các buổi nói chuyện, ông thường tâm sự: thiên nhiên, con người, những câu ca dao ở Vạn Gò Bồi, Tùng Giản, Văn Quang, Luật Bình, Kim Trì, ở Bình Định, Quy Nhơn đã làm thành một mảnh rất sâu xa, tinh tế, bền vững trong tâm hồn ông.

Xuân Diệu rất tự hào vì cái gốc “Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong/Ông đồ nho lấy cô làm nước mắm” của mình và tình cảm đó làm nên một trong những bài thơ mộc nhất, thương nhất, xúc động nhất của ông: Làng xóm cười giọng ông đồ trọ trẹ Nhưng quý ông đồ văn vẻ giỏi giangBà ngoại nói: tôi trọng người chữ nghĩaNên dám gả con cách tỉnh xa đàng Tiếng đàng ngoài tiếng đàng trong quấn quítVào giữa mái tranh, giường chõng cột nhàRứa mô chừ? Cha hỏi điều muốn biếtNgạc nhiên gì mẹ thốt ối chu cha!...

Năm 18 tuổi, Xuân Diệu bắt đầu xa quê để đi học rồi đi làm ở Huế, Hà Nội, Mỹ Tho, và chỉ vài năm sau, giữa tuổi 20, trong tình cảnh “nỗi đời cơ cực giơ nanh vuốt/cơm áo không đùa với khách thơ”, ông trở thành một trong những chủ soái của phong trào thơ Mới, làm bàng hoàng làng thơ VN thời ấy bằng “một y phục tối tân... lẫn với chút hương xưa của đất nước” như phát hiện của nhà phê bình Hoài Thanh. Cái “y phục tối tân” thì có lẽ Xuân Diệu học từ các nhà thơ hiện đại Pháp, còn “chút hương xưa của đất nuớc”, tiếng cây me ríu rít, mùi hương hoa bưởi báo đêm khuya, cái ánh trăng sáng, xa, rộng vô chừng kia thì chắc chắn Xuân Diệu đã mang theo từ đất trời quê mẹ. Tham gia tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, lên Việt Bắc kháng chiến rồi về thủ đô khi đất nước bị chia cắt cho đến 1975, Xuân Diệu đã phải xa quê đằng đẵng hơn 30 năm. May mắn cho ông, “nhớ, tìm con, má đi tập kết/đem miền Nam ra ở với con”, người mẹ của vạn Gò Bồi, làng Tùng Giản đã lặn lội đi tập kết, đem con cá, con tôm, mắm muối, tiếng hò giã gạo, tiếng chày nện cối suốt đêm sao của quê hương ra sống cùng ông ở Thủ đô. Tuy vậy, nhà thơ vẫn không nguôi thương nhớ quê hương “Quê má, quê má yêu/ta mang theo sớm chiều/mang theo trong giọng nói/pha Bắc vẫn Nam nhiều” và tha thiết mơ một ngày trở lại “Ôi bao giờ, bao giờ/ Ta tắm vào da thịt/ Con sông nhỏ Gò Bồi. Quy Nhơn về ngụp biển/ Muối đọng ở vành tai”. Niềm thương nhớ quê hương trong những năm xa cách đó, ngoài thổ lộ trong thơ, đã được Xuân Diệu dồn vào bài phê bình nghiên cứu tuyệt hay “Sống với ca dao dân ca miền Nam Trung bộ”, năm 1963. Cho đến nay, đây vẫn là bài viết công phu nhất, toàn diện nhất, sâu sắc và giàu cảm xúc nhất về ca dao dân ca miền Nam Trung bộ và Bình Định, với Xuân Diệu, là “một thứ máu của tổ quốc”. Ở bài viết dài gần trăm trang in này, nhà thơ bồi hồi kể chuyện “tôi với em tôi chen chúc nghe hô bài chòi ngaỳ tết ở chợ lan g Văn Quang. Làng nhỏ, chợ nhỏ, đồng bào rất hiền lành, anh hô bài chòi cũng hiền”, chuyện đêm nằm đò dọc từ Vạn Gò Bồi xuống Giã (Quy Nhơn), nghe “gió nhẹ hiu hiu phần phật trên buồm” và “sóng nhỏ nghìn gợn đập canh cách dưới thân thuyền”, chuyện tục hát giã gạo thật độc đáo ở Vạn Gò Bồi, với những đợt hát kéo dài suốt mấy tháng liền. Trong ký ức Xuân Diệu, dường như mỗi người Bình Định, nhất là phụ nữ, ai cũng có một “pho” ca dao dân ca riêng. Hồi nhỏ là các dì các mợ, bà vú già giữ em ruột ông, bà ngoại ông. Chính nhờ bà ngoại mà ông biết được bài ca dao rất nghịch mà cũng rất buồn này:Sớm mai em xách cái thõng ra đồng Em bắt con cua, em bỏ vô trong cái thõngNó kêu cái rỏng Nó kêu cái rảnhNó kêu chàng ơi!Chàng giờ an phận tốt đôiEm đây lỡ lứa mồ côi một mìnhVà cái ông “Tốc xi măng” ở Quy Nhơn. Cái con người dở khờ, dở dại, đôi mắt lạc trí ấy đã tay đập nhịp lên đùi, miệng hát cho Xuân Diệu và Chế Lan Viên nghe cả một bản trường ca ca dao huê tình rất dài và thật hay. Rồi đến má nhà thơ. Xuân Diệu đi học, ghi chép ca dao dân ca khắp nơi, mà mấy chục năm trời chẳng ngờ má mình cũng là một cái “mỏ” lớn. Mãi đến khi má tập kết ra với ông được 5 năm, tình cờ nói chuyện, ông mới biết má thuộc vô khối ca dao dân ca hay quê mình. Không những thế, bà còn là tác giả của nhiều câu rất đáo để. Ví như câu “Trồng trầu thì phải xẻ mương/làm trai hai vợ phải thương cho đồng”, bà làm là để nhắc khéo chồng phận “lẽ mọn” của mình (Cha Xuân Diệu đã có vợ ở ngoài Bắc, vô Bình Định lại lấy má ông, nên bà phải là vợ “bé”). Hay như câu này: Anh ngồi trong bếp lửa đau cái bụng Em ngồi ngoài cửa nát nửa lá gan Biết thuốc chi mà chữa bệnh chàng Lấy trầm hương cho uống sao chàng vội quên là bà “đặt” để nhớ chuyện chữa khỏi bệnh hay đau bụng của cha ông bằng cách lấy gừng vùi vô bếp rồi cho ông uống. Khi “đặt”, bà thấy nói “gừng” thì không hay nên nói thành “trầm hương” cho hay... Xuân Diệu viết “ca dao dân ca Nam Trung bộ, Bình Định đã ru tôi ngủ và đánh thức tôi dậy với những thương mến bao la của quê hương thứ nhất, nơi má đẻ ra mình”. Nhớ quê, yêu quê, nặng tình quê như thế, nên năm 1976, khi được về thăm quê, niềm vui, hạnh phúc rộn in trong thơ Xuân Diệu “Ba chục năm dư được trở về/quê mừng mình lại đón mừng quê.../Nước không mất nữa, trời xanh thế/Đất hết chia rồi lộng bốn phương”. Đặc biệt cảm động là chuyến trở về với Tuy Phước, với Gò Bồi được Xuân Diệu ghi lại trong bài thơ “Đêm ngủ ở Tuy Phước”: Đêm ngủ ở Tuy Phước để mà không ngủ Những con dế cùng tôi thức suốt năm canh Thức những ngôi sao, thức những bóng cànhĐêm quê hương thương cái hương của đấtNgủ không được bởi gió nồm từ biển lên cứ nhắc:- Trọn mình anh đã nằm giữa lòng tôiKhi má anh sinh raAnh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò BồiNên tới già thơ anh còn đậm đà thấm thíaNha thơ Huy Cận, bạn thân nhất của Xuân Diệu, cho biết: càng về cuối đời, tình yêu quê mẹ của Xuân Diệu càng thiết tha, da diết, ông luôn muốn làm nhiều việc để đền đáp nơi sinh thành. Có lẽ vì thế mà công trình nghiên cứu văn học lớn cuối cùng của Xuân Diệu là về danh nhân Đào Tấn, đồng hương Tuy Phước của ông. Còn nhớ đó là khi giới nghiên cứu về Đào Tấn tuy đều đánh giá cao các sáng tạo tuồng bất hủ của cụ nhưng về con người, cuộc đời cụ, thì còn không ít nghi ngại, một số người còn mạt sát cụ thậm tệ về việc làm quan to của triều Nguyễn như một bằng chứng phản bội đất nước. Xuân Diệu nghe được, rất bất bình và quyết định xung trận. Trong hội thảo lần thứ hai về Đào Tấn tại Quy Nhơn năm 1979, Xuân Diệu đã đăng đàn tới hơn hai giờ đồng hồ với tham luận “Đọc thơ và từ của Đào Tấn”. Kiến thức uyên bác, tư liệu phong phú, phân tích tinh tế, lý lẽ sắc sảo, Xuân Diệu đã khắc họa chân dung Đào Tấn không chỉ như một “nhân tài nghệ thuật đặc biệt” mà còn là một nhân cách lớn, một con người hết mực yêu nước thương dân. Bằng một linh cảm thiên tài, chỉ qua lời của Tiết Cương, nhân vật tâm đắc của Đào Tấn, “Thế sự đoản ư xuân mộng/nhân tình bạc tợ thu vân/nghiến rằng cười cười cũng khó khăn/ông lòng chịu chịu càng vui sướng”, Xuân Diệu đã nhận ra việc làm quan của Đào Tấn thực ra là một “chủ động lớn lao của người chấp nhận sự hy sinh và cảm thấy trong việc nằm gai nếm mật của mình niềm vui sướng của sự tự giác tự nguyện”. Những phát hiện sử học sau này đã chứng minh linh cảm của Xuân Diệu là hoàn toàn đúng.

Tham luận đầy thuyết phục của Xuân Diệu đã là một “chiêu tuyết’ tuyệt vời cho những oan ức mà cụ Đào phải gánh chịu gần cả thế kỷ, là đòn quyết định làm câm bặt mọi ý đồ bôi nhọ cụ. Sau này, Xuân Diệu đã dày công phát triển tham luận trên thành một công trình nghiên cứu lớn và những dòng cuối cùng của công trình này được Xuân Diệu viết vào ngay 7/11/1985, chỉ trước khi ông trút hơi thở cuối cùng hơn một tháng (18/12/1985)...

Nguồn: vanvn.net

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2009

Cái ăn Bình Định qua những câu ca xưa

Sống trong phong cảnh sơn thủy hữu tình, sông chảy, núi cao, biển dào dạt sóng vỗ, con người Bình Định chẳng dám sánh với người Kinh Đô thanh lịch “ăn Bắc, mặc Kinh”. Nhưng với vốn đặc sản của riêng mình cũng đủ cho người dân ở đây tự hào.
Người Bình Định có biệt tài làm bánh ít lá gai. Ai đã từng thưởng thức bánh ít Bình Định thì khó quên cái dẻo dai, ngon ngọt của nó. Thế mới có câu ca:
“Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi”
Ngoài bánh ít lá gai còn có bánh ít nhân tôm, bánh ít nhân mè nữa. Mỗi thứ với cách thức chế biến riêng, bằng những kinh nghiệm riêng đã tạo nên cái ngon miệng.
“Muốn ăn bánh ít nhân mè
Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm
Muốn ăn bánh ít nhân tôm
Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì.”
Chẳng những thế mà trên mảnh đất của người Chàm xưa, còn lại nhiều di tích Chàm, người dân cũng thật thà đặt tên cho một ngọn tháp là tháp Bánh Ít.
“Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Sông xanh núi cũng xanh rì
Vào Nam ra Bắc cũng đi đường này.”
Liên quan đến tháp Chàm và đặc sản của Bình Định phải nói đến nem chợ Huyện –Tuy Phước.
“Ai về Tuy Phước ăn nem
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm.”
Người Bình Định rất có lý khi đặt nem chợ Huyện bên cạnh Tháp Chàm. Điều đó nói rằng: nem chợ Huyện là đặc sản “có cỡ”. Vào quán, gọi món nem chua nhâm nhi chút rượu chờ tiếp món nem nướng để thưởng thức. Và một lần như thế, bạn sẽ không bao giờ quên.
Bình Định có dừa Tam Quan nổi tiếng. Những hàng dừa râm mát, những cô gái ở đây da trắng nõn nà vì không một giọt nắng nào vươn đến. Nhiều cô gái đẹp lạ lùng:
“Tam Quan ít mít nhiều dừa
Nhiều cô gái đẹp mà chưa có chồng.”
Và các cô cũng đa tình không kém, dám chấp nhận cả cho tình yêu:
“Tam Quan ngọt nước dừa xiêm
Cha từ, mẹ bỏ vẫn tìm theo anh.”
Dừa cho nhiều sản phẩm. Và những thi tứ cũng khởi nguồn từ đây:
“Cạo dừa, đạp cám cho nhanh
Ép dầu mà chải tóc anh, tóc nàng.”
Bình Định cạnh biển Đông, có đầm Thị Nại, cá tôm phong phú. Câu ca vùng này đã nói:
“Cá nục gai bằng hai ca nục vọng
Vợ chồng nghĩa trọng
Nhơn nghĩa tình thâm
Xa nhau muôn dặm cũng tầm
Gặp nhau hớn hở tay cầm lời trao.”
Nghề làm nước mắm cũng theo đó mà phát triển. Tuy không như nước mắm Phú Quốc, Phan Thiết...nhưng nước mắm Vạn Gò Bồi cũng mặn mà không kém:
“Gò Bồi có nước mắm thơm
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi.”
“Nước mắm Gò Bồi, trã nồi An Thái”, đó chính là hai đặc sản mà nhân dân so sánh với nhau. Chính nước mắm Gò Bồi đã làm nên cái duyên mặn mà, kết nguyền tình nghĩa của các đôi nam nữ:
“Ai về dưới Vạn Gò Bồi
Bán mắm, bán cá lần hồi thăm em.”
Xuân Diệu khi hồi tưởng nhớ về quê ngoại không thể nào quên được:
“Ôi, tôi mang sẵn cất sâu thay
Từ lúc má tôi đẻ tôi ra ở Vạn Gò Bồi làm nước mắm
Một hạt muối trong tim dể mặn với tất cả những gì đằm thắm...”
Tình nghĩa người miền ngược với người miền xuôi càng thêm thắt chặt qua những sản phẩm của biển cả, đầm hồ này:
“Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên.”
Đó là những cái ăn, dẫu không bằng “ăn Bắc, mặc Kinh” nhưng cũng lắm điều thú vị, phong phú mà ở đây không thể kể ra hết.
Nếu ở Hoài Nhơn có dừa Tam Quan thì đi vào Phù Mỹ lại có nhiều thứ khác. Đó là chè tươi:
“Anh về Phù Mỹ nhắn nhe
Nhắn chị bán chè sao vậy chẳng lên?
Anh về dưới vạn thăm nhà
Ghé vô em gởi lạng trà Ô Long.”
Đó là tôm, tép:
“Rủ nhau mua tép Trà Ô
Sẵn bờ cát trắng phơi khô đem về...”
Đến Tuy Phước, bạn chẳng những thưởng thức nem chợ Huyện, nước mắm Vạn Gò Bồi, mà cả dưa Luật Lễ nữa chứ:
“Muốn về Luật Lễ ăn dưa
Sợ e nước lớn đò đưa không đều.”
Thật là vô vàn. Vì thế mà ca dao Bình Định đã khuyên:
“Muốn ăn đi xuống
Muốn uống đi lên
Dạo khắp bốn bên
Chợ Thành, chợ Giã
Chợ Dinh bán chả
Chợ Huyện bán nem...”
Quả thật là thế. Núi rừng Tây Sơn cũng có sản vật ngon để khoe với các vùng khác. Chẳng hạn, chà viên là thức trái cây ngon lành ở đây:
“Quảng Nam nổi tiếng bòn bon
Chà viên Bình Định vừa ngon, vừa lành
Chín muồi da vẫn tươi xanh
Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn.”
Và nhất là bắp nếp chín vàng của vùng đất này làm bồi hồi những ai đi xa.
“Ta về ta nhớ Bến Giang
Nhớ soi bắp nếp chín vàng bên sông.”
Quê hương Bình Định lắm sản vật, bốn mùa hoa quả, cây trái ngọt lành, trù phú vật chất nên con người Bình Định xưa cũng phong phú về tinh thần. Và đất lành chim đậu...

Trích từ Amthuc.com

Mắm Vạn Gò Bồi

Bình Định cạnh biển Đông, có đầm Thị Nại, cá tôm phong phú. Câu ca vùng này đã nói: “Cá nục gai bằng hai nục vọng/ Vợ chồng nghĩa trọng nhơn nghĩa tình thâm/ Xa nhau muôn dặm cũng tầm/ Gặp nhau hớn hở tay cầm lời trao”.

Nghề làm nước mắm cũng theo đó mà phát triển. Tuy không như nước mắm Phú Quốc, Phan Thiết...nhưng nước mắm Vạn Gò Bồi cũng mặn mà không kém: “Gò Bồi có nước mắm thơm/ Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi.” “Nước mắm Gò Bồi, trã nồi An Thái”, đó chính là hai đặc sản mà nhân dân so sánh với nhau. Chính nước mắm Gò Bồi đã làm nên cái duyên mặn mà, kết nguyền tình nghĩa của các đôi nam nữ: “Ai về dưới Vạn Gò Bồi/ Bán mắm, bán cá lần hồi thăm em”.

Xuân Diệu khi hồi tưởng nhớ về quê ngoại không thể nào quên được: “Ôi, tôi mang sẵn cất sâu thay/ Từ lúc má tôi đẻ tôi ra ở Vạn Gò Bồi làm nước mắm/ Một hạt muối trong tim dể mặn với tất cả những gì đằm thắm...” Tình nghĩa người miền ngược với người miền xuôi càng thêm thắt chặt qua những sản phẩm của biển cả, đầm hồ này: “Ai về nhắn với nậu nguồn/ Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên.” Đó là những cái ăn, dẫu không bằng “ăn Bắc, mặc Kinh” nhưng cũng lắm điều thú vị, phong phú mà ở đây không thể kể ra hết.

Hai bà mẹ của hai nhà thơ lớn ở đất Gò Bồi

Có lẽ là một câu chuyện hiếm có, ở tiểu thị trấn Gò Bồi (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) này có đến hai bà mẹ từng gắn bó bao công lao và máu thịt với làng quê nhỏ bé và đầy thơ mộng, cùng hai nhà thơ lớn Xuân Diệu và Hàn Mạc Tử. Nơi đây trải qua tuổi thơ của Xuân Diệu và cũng là nơi Hàn Mặc Tử đã sống những ngày đau thương cùng mẹ.

  • Thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu

Bà Nguyễn Thị Hiệp.

Tiểu thị trấn Gò Bồi nằm dọc theo dòng sông Gò Bồi, một chi nhánh thuộc dòng Hà Thanh. Gò Bồi thời xưa đẹp và sầm uất đã để lại bao nhiêu hình ảnh với khách thơ:

Mai chiều lưới gõ đều tay nhịp
Sớm tối thuyền câu thoảng giọng hò.

Chiều dài dãy phố không dài lắm, chừng một cây số, nhà cửa san sát: nhà lầu, nhà ngói, nhà tranh chen nhau soi mình trong bóng nước khiến Gò Bồi nên thơ.

Vào những đêm trăng – trăng soi bóng xuống nước, nước gợn sóng lăn tăn, mặt sông như dát vàng, bóng những con thuyền in xuống dòng sông khiến dòng sông trở nên lung linh huyền ảo. Phải chăng đất thơ đã sinh ra nhà thơ? Nhà thơ tình Xuân Diệu đó. Có lẽ cũng từ những chất thơ của miền đất nhỏ này đã thấm vào hồn Xuân Diệu khiến ông trở thành nhà thơ tình nổi tiếng chăng?

Cuộc tình của thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu cũng đầy thơ mà cũng nhiều nước mắt. Mối tình bắt đầu từ một buổi chiều có một người khách lạ ăn mặc toàn màu đen bước lên bến chợ Gò Bồi. Ông Tú, người đàn ông đó, ngơ ngác nhìn quanh có ý dò hỏi tìm người quen và nơi ở trọ để mở trường dạy học. Có lẽ trời xui đất khiến cho bà Nguyễn Thị Hiệp (thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu) gặp ông.

Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên và tình cờ này khiến cho họ quen nhau. Bà Hiệp dang dở một đời chồng trở về quê sống với mẹ. Bao nhiêu đau khổ bị dồn nén, bỗng nhiên bà gặp ông đồ nho xa nhà mưu sinh, họ gặp nhau và quen nhau nhanh chóng.

Rồi nơi xóm Than bên kia sông là nơi ông đồ dạy học và cũng là nơi những đêm trăng với những cuộc hát hò giã gạo. Họ gặp nhau, ông đồ làm cố vấn cho bên nam, bày những câu hát đáp lại mà bên nữ lại là bà Hiệp. Những câu hò qua, đáp lại khiến họ càng gần gũi và say mê nhau hơn.

Những câu hát tình tứ tương tự, cứ dần dần gắn bó đôi trai tài gái sắc. Họ say mê nhau và trở nên vợ chồng.

Xuân Diệu là đứa con đầu lòng chào đời sống nơi quê ngoại.

Sau đó mấy năm thì bà vợ nhà từ đất Nghệ vào, cuộc tình tan vỡ, Xuân Diệu về ở với cha dạy học ở Collège. Thân mẫu nhà thơ Xuân Diệu ở lại Gò Bồi với mẹ, nỗi buồn thương đã khiến bà càng đau khổ.

Ngoài nỗi đau lìa chồng, bà còn chịu nỗi xót xa vì xa con. Thế mà bà vẫn chịu đựng chờ đợi, hàng tháng bà lại đi thăm con một lần ở Quy Nhơn. Mãi đến khi Xuân Diệu thành tài, nỗi đau thương dường như giảm đi ít nhiều khi hàng năm Xuân Diệu lại về thăm mẹ vào dịp giỗ ông ngoại.

Tiếp đến là những ngày kháng chiến gian khổ, Xuân Diệu ra Bắc, bà Hiệp ở lại miền Nam theo kháng chiến. Năm 1954 bà tập kết ra Bắc sống với Xuân Diệu. Cuộc hội ngộ sau mười năm xa cách đã đền bù phần nào nỗi buồn mấy mươi năm xa con, được gần con, chăm sóc cho con thật là hạnh phúc.

Thời gian sống với Xuân Diệu ở miền Bắc quả là những ngày hạnh phúc nhất. Bà từ giã cõi đời vào cuối năm 1969 và đến năm 1980 cụ được con trai là Xuân Sanh đem hài cốt về quê.

  • Bà Nguyễn Thị Duy - Mẹ Hàn Mặc Tử

Thân mẫu của nhà thơ Hàn Mặc Tử tuy không được sinh ra ở Gò Bồi nhưng đã gắn bó với Gò Bồi từ năm 1938 – 1939 cho đến cuối đời và thân xác bà còn gởi lại nơi đây.

Khi các con đã lớn, Hàn Mặc Tử và anh chị em đều có cuộc sống riêng, từ sau năm 1945, những ngày Hàn Mặc Tử vào Nam theo đuổi sự nghiệp văn chương Hàn thương nhớ mẹ lắm. Hàn có bài thơ “Giang hồ nhớ mẹ”, bài thơ được nhắc đến trong quyển “Tìm chân dung Hàn Mặc Tử của Phạm Xuân Tuyển”. Rất tiếc bài thơ không còn mặc dù chúng tôi tìm nhiều tài liệu nhưng chưa phát hiện ra.

Bà Nguyễn Thị Duy

Được biết, bà Nguyễn Thị Duy đã tìm về trú ngụ tại đầu thôn Tùng Giản, tức là Gò Bồi, một xóm quê hẻo lánh. Bà ở nhà ông Câu Bảy, một viên chức trong họ đạo công giáo.

Ông Câu Bảy khá giàu, nhà ngói lớn kiểu mới, trước nhà có một ao sen, trước ao sen là dòng sông Gò Bồi, dòng sông về phía thượng lưu tuy hơi nhỏ nhưng rất đẹp. Từ nhà bước ra sông là bến Chuông, cái làng ven sông này tĩnh lặng và toàn là người theo đạo Thiên Chúa. Để mưu sinh, thân mẫu nhà thơ Hàn Mặc Tử làm nghề buôn bán đồ cổ.

Năm 1939, khi Hàn Mặc Tử phát hiện ra mình có bệnh phong (bệnh hủi), được tin ở Gò Bồi có một ông thầy thuốc nam chuyên trị bệnh này, thế là Hàn cũng về trú ngụ với mẹ để chữa bệnh.

Thời ấy bệnh phong là một trong bốn trọng bệnh: “phong, lao, cổ, lại”. Bệnh phong được xếp hàng đầu vì sự lây lan, thành kiến ấy khiến Hàn về ở đây nhưng ít khi xuất hiện, nhiều khi trốn chui nơi túp lều về phía cuối vườn nhà. Người chăm sóc cho Hàn không ngoài ai ra, đó chính là mẹ. Bà đã ngày ngày cơm cháo thuốc thang cho Hàn. Sự hy sinh vô bờ bến ấy chỉ có những người trong gia đình mới biết. Bệnh ngày càng nặng, Hàn Mặc Tử trở lại Quy Hòa và mất.

Thân mẫu Hàn Mặc Tử vẫn tiếp tục ở lại Gò Bồi, ngày ngày ra bến Chuông, nhìn về phía Quy Nhơn để tưởng nhớ đến người con bất hạnh. Bà sống cuộc đời âm thầm. Mãi đến năm 1949 – 1950, nhà thơ họa sĩ Phạm Hổ đã về đây mở lớp hội họa, chúng tôi theo học và thường gặp nhau tại nhà ông Câu Bảy để thưởng thức trà sen và bàn luận về văn chương, hội họa. Mỗi lần hội họp chúng tôi được bà cho uống trà sen. Bà thường ngồi bên cạnh về phía xa, lắng tai nghe, mỗi lần nhắc đến Hàn Mặc Tử là đôi mắt bà sáng lên vui sướng.

Trà sen được ướp ngay tại chỗ, trà được bỏ vào lòng hoa lấy dây túm miệng lại. Mỗi lần pha trà thì bơi sõng ra hồ, cắt cả hoa lẫn trà về pha. Trà thơm hương sen thoang thoảng, khiến đêm đêm bàn luận văn chương thêm lãng mạn. Thời kháng chiến mà chơi như thế là quá lắm nên anh em thường rỉ tai nhau giữ kín việc thưởng thức trà sen như một khuyết điểm.

Bà mất năm 1951 trong âm thầm, chúng tôi cũng không hay biết gì nên cũng chẳng đến thăm viếng hay đốt một nén hương. Mãi về sau này, sau năm 1958 – 1959, chúng tôi mới có dịp nhắc đến Hàn và nhắc đến bà. Nấm mồ nhỏ nhắn của bà được xây bên kia bờ sông, hướng mộ quay về bến Chuông như một nỗi niềm luyến tiếc

NGUYỄN PHÚC LIÊM

Gò Bồi trong ký ức Xuân Diệu

Là một nhà thơ, Xuân Diệu ghi lại ký ức của mình theo kiểu viết "lịch sử trái tim", và bức tranh Gò Bồi của những năm đầu thế kỷ hiện về với khung cảnh, những con người, những số phận trong cái nhìn thấm đẫm tình cảm của ông.

Nét quê

Đây, "Con sông làng Tùng Giản, ngày hai lần lên xuống theo nước thủy triều, ghe xuồng vào tuốt trong chợ Đình, nhà cửa bằng tre lá đơn sơ nằm trên một cù lao, bao quanh là nước xà hai dát cát bồi lên thành gò, nên người ta gọi là Gò Bồi". Còn đây, "Mặt tiền Gò Bồi ngó ra sông ghe thuyền san sát, nhà ngói chằng chịt cao thấp không đều… những chiếc ghe bầu to lớn từ xa đến cất nước mắm hoặc trao đổi các đặc sản địa phương cho các chủ vựa, như lu, khạp, mật ong, chiếu bông của Quảng Nam, đường phổi, đường thẻ nổi tiếng của Quảng Ngãi hoặc lãnh, lụa Ngân Sơn của Phú Yên".

Trong ký ức của ông, Gò Bồi có nem chả ngon nổi tiếng, nước mắm cũng nổi tiếng vì đượm, vì ngon, có loại mắm bà ngoại ông để đến mười tám năm, nếm một lần cứ muốn nếm hoài, nếm mãi. Và những cơn lụt hồ thủy, từ bờ sông nước trong xanh như mặt hồ, nhẹ nhàng bò vào sân và dừng lại bậc tam cấp gạch, rồi tràn vô nhà, lách tách vỗ vào vách mang theo những lá khô, rác rều và củi mục. Làng Tùng Giản, Vạn Gò Bồi ngày ấy có trường hát cải lương, hát bội, có tiệm thuốc phiện, có quán nước, sòng bạc…

Mô tả khá chi tiết của Xuân Diệu cho ta hình dung về Gò Bồi ngày ấy có diện mạo của một thị tứ sầm uất ven sông và đặc biệt thương mại đường biển phát triển. Đó là khung cảnh, là cái bên ngoài, "nhưng bên trong những gia đình, cuộc đời của mỗi người có những gay cấn khổ đau mà chắc tuổi nhỏ của tôi nào có thông hiểu được". Vâng! Xuân Diệu để lòng mình ghi lại những số phận, những con người cụ thể mà cuộc sống gắn chặt với quê hương, với hoàn cảnh xã hội lúc đó. Ông có một bạn Cúc tóc phủ tai, da xanh khô, mắt sâu hõm, nằm trên chiếc võng ngắn cũn rách bươm, ruồi bay quanh từng đàn, đói đã mấy ngày không có cơm ăn. Trong ký ức của ông còn có một ông Túc phu trường, vợ chết sớm, con đi học mà không áo mặc, bữa cơm khoai chỉ có đĩa muối ớt. Và nữa, một chị Phương đẹp, có chút ít chữ nghĩa, muốn đi học tiếp mà không được, không chịu nổi ông bố nghiêm khắc, mẹ ghẻ ác nghiệt, trốn nhà bỏ theo đoàn cải lương. Chị bị cha bắt về, đánh một trận nhừ tử, cạo trọc đầu rồi đuổi đi, cuối cùng chị thay ông Thiệt già yếu, chống đò bên sông qua ngày. Còn chị Nho Văn thì sống nhờ, ăn cơm thừa, đằng đẵng chờ chồng vào Nam kiếm việc làm vì quê nhà hạn hán, mất mùa, chờ mãi mà chồng vẫn cứ biệt tăm. Và còn nhiều lắm những má Năm nhân hậu, những cậu Nhứt, chú Cự… trong nghèo khổ, tối tăm nhưng "tình yêu thương giữa bà con, cô bác trong vùng đượm tình gia đình, máu thịt". Đó chính là tình người, là bản sắc "trọng tình" của người dân của một vùng cư dân nông nghiệp, là cái để mà cộng đồng tồn tại qua những thăng trầm của số phận, của lịch sử.

Đọc Hồi ký của Xuân Diệu về Gò Bồi, được trải nghiệm từ những suy nghĩ và cảm xúc của ông về nơi chôn rau, cắt rốn của mình, tôi có được cái cảm giác lịch sử từ những gì ông ghi lại cho đời sau. Ông viết: "… tôi thấy mặt người dưới thời Pháp thuộc rất buồn; mặt người nào như cũng có cái gì uất ức, bố tôi cũng thế, chú tôi cũng thế". Đó là cảm giác về những thân phận nô lệ ngay trên quê hương mình. Và nếu ta làm một phép so sánh, những gì mà ta có hôm nay thật quá đỗi lớn lao.

. Ngô Hồng Sơn

Chả Cuốn Gò Bồi

Tục ngữ ta có câu: "Muốn ăn đi xuống, muốn uống đi lên". Thật vậy, càng đi gần về phía biển, thực phẩm càng dồi dào. Gò Bồi (Tuy Phước) có cái duyên may đó. Nào tôm, nào cá, lươn, lịch. Mùa nào thức ấy và sung mãn nhất là vào tháng 2, tháng 3 âm lịch. Khiến một tác giả đã viết:

Gò Bồi tiếp biển một dòng sông
Tôm cá tươi màu thuận gió đông
Cá thu sắp dãy người chen chúc
Xuôi ngược thuyền ghe nước mấy dòng.


Theo thủy triều tôm bạc, tôm rằn, tôm đất đã làm thực phẩm của làng tôi thêm phong phú. Từ con tôm, cái cá, người ta đã chế biến đủ món: chả tôm, chạo tôm, tôm chua, tôm nướng, nhưng ngon nhất vẫn là chả.

Chả tôm làm từ tôm rằn. Tôm phải thật tươi, màu ngả về sắc đỏ. Cứ một miếng chả là nửa con tôm được gia vị với hành tiêu, nước mắm và một ít mỡ sa. Phải là mỡ sa thì chả mới đủ béo. Bánh tráng thật mỏng cắt thành miếng nhỏ cuốn tôm kẹp thành gấp trông như những bánh pháo. Một trã than hồng vừa đủ nóng. Cô hàng chả sắp những kẹp chả, trở qua lật lại thế nào chả đủ chín mà không cháy. Vừa nướng vừa thoa mỡ khiến chả chín mà không khô. Nếu bạn muốn ăn độc vị thì chả gắp cũng đã ngon lắm rồi.

Nếu bạn muốn thưởng thức thật đầy đủ cái hương vị của chả cuốn Gò Bồi thì bạn chờ một tí nữa cô hàng chả sẽ nướng thêm một xâu nem tươi. Nem tươi được làm bằng thịt nạc vai hay thịt đùi lợn cỏ (lợn nhỏ con) thì nem mới ngon và giòn. Thịt được quết liên tục trong cối đá, gia vị một ít muối và tiêu, vùng với những sợi da heo cắt nhỏ như bún để nem vừa dai lại vừa giòn.

Nhìn bàn tay thoăn thoắt nhẹ nhàng của cô hàng cuốn chả cũng thấy vui. Bánh tráng mỏng được xoa nước trải nằm trên mâm gỗ thật láng và sạch. Nào chả gắp nem tươi được thái thành thỏi bằng ngón tay út sắp nhanh trên lớp rau sống xanh, nhiều nhất vẫn là rau răm, rồi khế vừa chín vàng, tiếp theo là dưa leo. Chả được cuốn thành cuốn bằng cườm tay trẻ em. Bây giờ đã sẵn sàng. Mời bạn hãy thưởng thức và xin mách với bạn rằng: Chả cuốn Gò Bồi phải được chấm với nước mắm nhỉ chứ không pha chanh đường đâu nhé. Vì vậy mà chả cuốn Gò Bồi có một hương vị riêng không lẫn vào đâu được.

Cắn một miếng đầu tiên là vị mặn của nước mắm nhưng trong khoảnh khắc cái mặn đã tan còn lại dư vị nơi cổ họng tiếp đó mới thật sự là mùi vị của chả. Bạn được nghe cái vị ngọt lừ lừ của tôm rằn, vị béo nhè nhẹ của mỡ sa, vị ngọt ngây ngây của nem. Bạn tiếp tục nhai thì cái chua ngót ngót của khế, cái giòn giòn của dưa leo và cái sực sực của da heo. Chả không là hỗn hợp mà tập hợp của nhiều mùi vị vừa riêng lại vừa chung. Bao nhiêu vị đó đã làm nước bọt bạn tiết ra trôi nhanh vào bao tử đang đòi hỏi của bạn.

Chả vừa miệng nên người dân quê tôi ít dùng rượu để kích thích cái ngon ăn. Ăn chả vào ban đêm mới tuyệt. Tuy không cầu kỳ, nhưng thật đúng lúc. Đi xem hát hay đi chơi khuya về đi ngang hàng chả, bạn không thể không dừng chân. Nói theo lối quê tôi là "cầm lòng không đậu" vì cái mùi thơm vừa quen thuộc vừa hấp dẫn đến lạ kỳ mà bạn đã nghe từ xa. Cái mùi vừa rộng vừa ngây. Cái thơm của tôm thịt hòa với mùi mỡ nướng. Một chút vị đăng đắng của mỡ cháy, mùi nước mắm ngon trộn tương ớt tạo nên một mùi vị quê hương khiến dân làng tôi nghiện chả cuốn Gò Bồi là thế. Không phải chỉ bọn con trai như bọn tôi nghiện đâu mà các cô cũng thế. Cho nên khi có chồng xa lúc về thăm nhà đều không quên món chả. Câu cao dao vừa vui vừa dí dỏm đã nói lên điều đó:

Lấy chồng xa em nhớ ba nhớ má
Nhớ chả Gò Bồi nhớ quá nên mải về thăm.

Chả ngon có tiếng là chả cô Mười Út, chả bà Hoài truyền đến ngày nay cho con cháu. Chả Gò Bồi là thế đó. Mời bạn về thăm quê tôi và nhớ ăn một bữa chả. Về Gò Bồi mà không ăn chả coi như bạn chưa đến Gò Bồi đấy.
http://www.bacbaphi.com.vn/entertainment/archive/index.php/t-167242.html

Cầu Gò Bồi ngày nay

Gò Bồi xưa (Vạn Gò Bồi)


Thị trấn Gò Bồi thời hoàng kim, do Ông Nguyễn Phúc Liêm, anh em cô cậu với Nhà thơ Xuân Diệu cung cấp, ảnh chụp năm 1957

Vài nét về Gò Bồi


Sông Gò Bồi nằm trong hệ thống sông Kôn, bắt nguồn từ 2 nhánh sông Tân An và sông Gò Chàm hợp thành, chảy qua địa phận Gò Bồi thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, rồi đổ ra đầm Thị Nại. Trước 1957, Gò Bồi là vùng đất phồn thịnh “trên bến, dưới thuyền”, mực nước sông rất sâu nên ghe thuyền ở tận trong Nam, ngoài Bắc thường xuyên ghé vào đây mua bán trao đổi hàng hóa. Chợ Gò Bồi bấy giờ rất sầm uất… Chiến tranh tàn phá, Phước Hòa như các xã Khu Đông khác của Tuy Phước “đi dễ, khó về”, cảng thị dần hoang tàn đổ nát. Chiến thắng lịch sử Mùa Xuân 1975 đưa đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, đến nay Gò Bồi đã từng bước thay da đổi thịt phồn thịnh như xưa - là trung tâm kinh tế giao lưu mua bán của 7 xã vùng đông bắc Tuy Phước và các xã phía Đông của huyện Phù Cát - có tỉnh lộ 640, huyện lộ Gò Bồi - Bình Định và nhất là hiện nay, Khu kinh tế Nhơn Hội bước đầu đi vào hoạt động, góp phần tạo nên diện mạo mới cho Gò Bồi.

Hàng năm, cứ vào ngày mùng Hai Tết Nguyên đán, trên sông Gò Bồi (vùng trung tâm chợ) lại nhộn nhịp, huyên náo hẳn lên bởi hàng ngàn người vừa khách thập phương vừa dân bản địa tập trung trên cầu, dưới bến hò reo cổ vũ cho Hội đua thuyền truyền thống diễn ra trên sông. Anh Phạm Thành Nghĩa, Giám đốc Trung tâm Văn hóa - Thông tin - Thể thao huyện Tuy Phước, cho biết: Hội đua thuyền ở đây có từ xa xưa, gắn bó mật thiết với cư dân ven đầm Thị Nại - nó khơi dậy truyền thống quê hương vùng sông nước trong đánh giặc ngoại xâm. Ngày nay, hội đua thuyền tôi luyện sức dẻo dai phục vụ đánh bắt cũng như nuôi trồng thủy sản của ngư dân trong vùng. Mặt khác, đây cũng là hoạt động tinh thần thể hiện nét văn hóa đặc trưng của người dân biển…

Hội đua thuyền trên sông Gò Bồi chỉ diễn ra mỗi năm một lần vào mùng Hai Tết. Vận động viên (VĐV) tham dự là những ngư dân trẻ, khỏe được tuyển chọn ở 4 xã Khu Đông Tuy Phước (Phước Thuận, Phước Sơn, Phước Hòa và Phước Thắng). Mỗi xã một đoàn từ 20 đến 25 VĐV tham gia các loại hình: Đua thuyền tập thể, đua sõng câu, thi bơi lội và thi bắt vịt trên nước. Thi bơi lội diễn ra đầu tiên với cự ly 1.500m đối với nam, 1.000m đối với nữ; đua sõng câu 4 lượt với 8 VĐV cự ly 1.500m; cuối cùng sôi động nhất vẫn là đua thuyền tập thể. Mỗi đội 11 VĐV (gồm 1 chỉ huy và cũng là người cầm lái giỏi, và 10 tay chèo) với 2 vòng đua, cự ly 1.500m. Thuyền tham gia đua được làm công phu với thiết kế đầu rồng, trang trí nhiều hoa văn đẹp mắt được chuẩn bị trước đó hàng tháng và do tập thể cả xã đầu tư - bởi chiếc thuyền đua là đại diện bộ mặt địa phương. Khi cờ lệnh phất, 4 thuyền rồng của 4 xã xuất phát cũng là lúc tiếng cổ vũ, tiếng hò reo, tiếng trống thúc giục làm sôi động cả vùng sông nước.

....

Hội đua thuyền trên sông Gò Bồi và phiên chợ Gò Trường Úc là nét văn hóa đặc trưng trong dịp xuân về, Tết đến của người dân miền đất cuối nguồn sông Kôn này.

(Baobinhdinh)